
chú
Dũng, người bạn làm ăn vẫn thường hay nhờ bố Ngôn chở hàng. Với anh, kiến thức
toán lớp 6 cũng bình thường thôi, không có gì khó khăn to tát cả. Nhưng cô học
trò của anh thì quá non nớt và không được sáng dạ cho lắm. Tuy nhiên, điều thuận
lợi cho Ngôn là từ lần tiếp xúc của buổi học đầu tiên, cô bé rất quý Ngôn và
thích cách giảng bài của anh: thật hiền hòa và từ tốn. Cô bé không bướng bỉnh,
đanh đá; trong mọi câu chào hỏi hay trả lời Ngôn, đều rất lễ phép lịch sự. Chú
Dũng và cô Phương, vợ chú, là những người rất quý mến con người trí thức như
Ngôn. Một gia đình có nề nếp, gia giáo. Họ tìm chọn cho con được học ở trường tốt,
lớp ngoan; mỗi ngày cô con gái tan học là lại thấy mẹ đứng đợi sẵn ở cổng trường
đón về; lịch học, lịch nghỉ của con, họ đều nắm được hết. Ngôn nghe cô Phương kể
chuyện như vậy, và qua sự quan sát của mình, anh cũng nhận thấy không khí tốt
lành, bình an nơi mái ấm này. Anh trân trọng sự chăm sóc, dạy bảo con cái của bố
mẹ cô bé. Nhưng trong thâm tâm, anh có chút lo lắng cho cô học trò của mình. Anh
so sánh cô bé với anh, và dường như có nhiều điểm tương đồng. Sự bao bọc quá kỹ
lưỡng dành cho con cái của các bậc phụ huynh như một cánh cửa thép bảo vệ chắc
chắn. Nó ngăn ngừa mọi kẻ xấu xâm nhập và mọi yếu tố làm tổn hại đến tâm hồn
trong trắng của các em. Nhưng nó lại là một trở ngại không nhỏ để các em có thể
nhìn ra thế giới, mở rộng và phát triển tối đa các năng lực bẩm sinh của mình. Ngôn
nhìn lại mình cũng giống như một chú gà choai nhốt hoài trong lồng, đến khi lớn
tướng rồi mới ra ngoài chạy loăng quăng, tìm kiếm và học hỏi cuộc đời. Anh tự
nhận thấy mình còn nhiều kém cỏi về những kỹ năng đối nhân xử thế, giao tế với
tha nhân. Anh vẫn đang nỗ lực lao mình ra với cuộc sống, học hỏi xã hội và điều
chỉnh bản thân để sớm thoát khỏi cái tù túng của tầm mắt hạn hẹp nơi mình. Nhìn
bé Thu, học trò của anh, Ngôn ước mong sao cô bé có thể tiếp cận và động chạm đến
cuộc đời sớm hơn anh, để dần dần đủ cứng cáp, đứng vững trong đời. Nhưng anh chỉ
suy tư như vậy, tất cả chỉ là nội tâm, bởi lẽ anh chỉ là một phần của tuổi thơ
Thu, chỉ là một người anh, người thầy gia sư, chứ không phải là bố mẹ của cô
bé.
“Bây giờ Thu hãy xem
nhé: 2 + 3 = 5; 2 = 5 - 3. Đó là ví dụ thứ nhất. Bây giờ anh cũng có 2 x 3 = 6;
2 = 6 : 3. Đó là ví dụ thứ hai. Vậy em thấy ở từng ví dụ, có các phép tính gì?”
“À... Em thưa anh, có một phép cộng và một phép trừ ở ví dụ thứ
nhất. Có một phép nhân và một phép chia ở ví dụ thứ hai ạ.”
“Ô kê!” Ngôn xắn tay áo, cầm viên phấn vẽ mũi tên theo lời giảng
giải của mình. “Đó chính là những phép tính ngược của nhau. Chúng ta sẽ nhận thấy
ở đây: một ‘số nhỏ’ cộng một ‘số nhỏ’ được một ‘số to nhất’; một ‘số nhỏ’ nhân
một “số nhỏ” được một ‘số to nhất’. Vậy nếu em muốn tìm một trong hai ‘số nhỏ’
của phép cộng, em chỉ việc lấy ‘số to’ trừ đi ‘số nhỏ’ kia. Đúng không nào?
Phép trừ chính là phép tính ngược của phép cộng. Nhân và chia cũng như vậy. Ngược
nhau. Làm thử cho anh bài này xem nào.”
Ngôn viết lên bảng một phép tính cộng. Số x phải tìm ở vị trí
số hạng. Thu chép đề bài xong, giải ra được kết quả.
“Đó, mỗi khi em gặp phép tính cộng hay nhân mà yêu cầu tìm số
nhỏ, là chỗ này, chỗ này này...” Ngôn chỉ những số hạng và thừa số trên bảng. “...
Em chỉ việc liên tưởng đến phương pháp phép tính ngược của anh nhé.”
“Vâng ạ.”
“Với phép trừ và chia cũng vậy, em sẽ lật ngược lại thành cộng
và nhân. Tuy nhiên, cực kỳ chú ý một ngoại lệ! Anh cho em ví dụ nhé: 8 – x = 3.
Vậy em có dùng phép tính cộng để tìm x không?”
“Có ạ. Em sẽ lấy 3 cộng 8... À không, không được ạ.”
“Đúng rồi. Phải đặc biệt chú ý hai trường hợp: khi tìm số trừ
và số chia, mình sẽ không dùng phép tính ngược. Mình phải tưởng tượng xem số
nào là ‘số to’ và số nào là ‘số nhỏ’ để rồi khi tìm ‘số nhỏ’ thì phải lấy ‘số
to’ trừ đi hoặc chia đi ‘số nhỏ’ thứ hai nhé. Nghĩa là không dùng phép tính ngược
để tìm số trừ và số chia!”
“Em nhớ rồi ạ.”
Mỗi lần giảng giải cho bé Thu, Ngôn căng hết các sợi dây thần
kinh ra để chỉ huy cho suy luận và miệng lưỡi của mình. Anh là một người cực kỳ
nhẫn nại. Vì để giúp cho một cô bé chậm tiếp thu như vậy hiểu được bài, chỉ có
duy nhất một đức tính cần thiết nhất nơi người giảng viên chính là nhẫn nại. Có
những bài toán cùng một cách thức giải quyết nhưng Thu lại không nhớ phương
pháp để áp dụng cho đúng. Phải qua hai ba buổi học, phải qua hơn năm bảy lần nhắc
đi nhắc lại cách làm, Thu mới có thể giải thành thạo các bài toán cơ bản.
Kết thúc mỗi giờ học, Ngôn luôn ngồi lại trò chuyện với cô bé
một hồi để hiểu rõ hơn về các vấn đề trường lớp hay chương trình học-chơi-ăn-ngủ
ở nhà mà bố mẹ Thu đã đặt ra cho em. Anh lắng nghe cả tất cả những câu chuyện
cô bé hồn nhiên kể, giải đáp tất cả những thắc mắc về kiến thức khoa học hay yêu
cầu lạ lùng nào đó của các thầy cô trên trường,... Cũng có những lần, Thu lại
được làm thính giả thưởng thức những câu chuyện ngụ ngôn, truyện cười thú vị của
Ngôn.