
t chút liên hệ nào
nữa, tôi bỗng ao ước sống. Tự đáy lòng, tôi thấy hối tiếc, đừng tự tử thì vẫn
hơn. Nhưng chuyện đã muộn. Dù muốn thôi, tôi cũng đã rớt xuống biển. Chiếc tàu
thật cao, thân tôi đã rớt khỏi chiếc tàu, nhưng chân tôi vẫn không dễ gì chạm
được mặt nước. Không còn bám víu vào đâu được, chân tôi càng lúc càng áp sát
mặt nước. Tôi cố co rút cẳng, nhưng mặt nước cứ xáp tới. Màu nước biển đen
ngòm.
Trong lúc đó, chiếc tàu vẫn nhả khói đen nghịt, bỏ
chạy mất. Bây giờ tôi mới ý thức được, dù không biết chiếc tàu sẽ đưa mình đi
đâu, nhưng ở lại trên tàu thì vẫn hơn. Bây giờ dù hiểu ra được thì đã lỡ cả
rồi. Vừa vô cùng hối tiếc vừa vô cùng lo sợ, tôi rơi dần xuống vùng sóng biển
đen ngòm trong yên lặng.
Đêm thứ chín
Ngoài
đường thiên hạ bắt đầu xôn xao. Chiến tranh như sắp xảy ra. Những con ngựa sổng
chuồng, bất kể ngày đêm, hung hăng chạy tứ tán quanh trang trại. Những tên tiểu
tốt hùa nhau đuổi theo đàn ngựa. Bên ngoài ồn ào như thế, nhưng trong nhà lại
yên lặng như tờ.
Trong
nhà chỉ có một người mẹ trẻ và một đứa con lên ba. Người cha đã bỏ nhà đi, vào
một đêm không trăng. Đêm ra đi, người cha đứng trên sân đất, xỏ chân vào đôi
dép rơm, quấn khăn đen lên đầu, rồi ra cửa sau mà đi. Đêm ấy người vợ trẻ xách
lồng đèn tiễn chồng, ánh sáng lồng đèn soi sáng một lằn dài cho đến chỗ cây
bách lừng lững trước hàng dậu trong đêm tối.
Từ đó
người cha đi mất biệt. Mỗi ngày người mẹ đùa với đứa con ba tuổi: “Cha đâu
con?”. Đứa bé chưa biết nói. Khá lâu về sau đứa bé mới bắt đầu nói được: “Đằng
kia”. Người mẹ hỏi: “Chừng nào cha con về hở con?”, đứa bé lúc nào cũng chỉ
đáp: “Đằng kia” rồi cười. Những lúc ấy người mẹ cũng cười theo. Và người mẹ lặp
đi lặp lại không biết bao nhiêu lần, cố tập cho đứa con nói: “Cha sắp về bây
giờ”. Nhưng đứa bé chỉ nhớ được có hai tiếng: “Bây giờ”. Đôi lúc người mẹ
hỏi: “Cha đâu con?”, có lúc đứa bé đáp: “Bây giờ”.
Về
đêm khi bốn bề chìm trong yên lặng, người mẹ nịt lại giải thắt lưng, dắt đoản
đao vào đấy, chuôi đoản đao quấn bằng da cá mập, rồi nịt đứa bé cõng trên lưng.
Người mẹ lặng lẽ bước ra khỏi cổng nhà. Người mẹ lúc nào cũng mang dép rơm. Có
lúc đứa bé ngủ thiếp đi trên lưng, trong tiếng dép rơm của người mẹ.
Người
mẹ đi dọc theo những bức tường trát đất của những trang trại trong ấp, lần về
hướng tây, xuống hết con dốc thoai thoải thì đến một cây lá quạt to. Cây lá
quạt to này là cái đích để rẽ sang phải, đi thêm khoảng vài trăm thước nữa thì
đến một cổng đền xây bằng đá. Đường dẫn đến cổng đền, một bên là ruộng còn một
bên toàn là những bụi cỏ tre cụt. Qua khỏi cổng đền thì có hàng cây tuyết tùng
cao trong bóng tối. Từ đây là một đoạn đường dài khoảng ba bốn mươi thước được
lát bằng những tảng đá, dẫn đến ngay dưới tam cấp của ngôi đền. Trên tam cấp có
đặt một cái thùng gỗ hứng tiền cúng điếu của tín đồ. Ngay trên cái thùng xám
xịt này, thòng lòng một sợi dây thừng, có mấy cái lục lạc treo lủng lẳng trên
đó. Ban ngày, nhìn thì sẽ thấy ngay gần chỗ mấy cái lục lạc có một tấm biển,
khắc mấy chữ Hán: Bát Phiên Cung. Hai nét phết của chữ Bát được viết trang trí
thành hai con bồ câu đâu đầu với nhau trông thật đẹp. Ngoài ra còn có nhiều tấm
đích đã bị bắn thủng do võ sĩ gia thần trong vùng đem cúng cho đền. Những tấm
đích này có khắc tên võ sĩ đã bắn thủng đích. Cũng có người đem cúng cả gươm
giáo.
Qua
khỏi cổng đền, lúc nào cũng nghe thấy tiếng cú rúc trên ngọn cây tuyết tùng.
Người mẹ đi, tiếng dép rơm đã mòn dẫm lẹp xẹp. Mỗi khi dừng chân lại trước đền
thờ, người mẹ đến lấy sợi dây thừng, rung lục lạc mấy cái, rồi ngồi thụp xuống
chấp tay vỗ. Những lúc như thế, con cú thường im ngay tiếng gáy. Người mẹ hết
lòng khấn vái cho chồng được bình an. Người mẹ tin trong dạ, chồng là võ sĩ đi
đánh giặc, mà Thần Bát Phiên là thần chiến tranh, nếu đã đem hết lòng cầu
nguyện như thế này, không lẽ lại không được toại nguyện.
Đứa
bé cõng sau lưng hay thức giấc vì tiếng lục lạc, bốn bề tối om nên thường giật
mình khóc. Những lúc như vậy, người mẹ vừa lẩm bẩm khấn vái, vừa lay vai ru
con. Có lúc đứa bé nín khóc, cũng có lúc, đứa bé càng khóc dữ hơn. Nhưng không
bao giờ người mẹ bỏ dở việc khấn vái nửa chừng.
Sau
khi hết lòng cầu khẩn cho chồng được bình an, người mẹ tháo dây nịt đứa con
cõng sau lưng, kéo đứa bé xuống phía trước, bồng nó lại trong tay rồi leo mấy
bực tam cấp lên trước điện thờ. “Con ngoan đấy nhé, ở yên chờ mẹ một lát nghe
con”. Lúc ấy, chắc người mẹ vừa nựng má đứa con vừa nói như thế. Xong người mẹ
tuốt sợi dây nịt cho dài thêm, cột một đầu vào thân đứa bé, còn một đầu cột vào
lan can tam cấp. Rồi người mẹ trở xuống tam cấp, đi đi lại lại con đường ba bốn
mươi thước lát đá trong sân đền, một trăm vòng để cầu khấn.
Đứa
bé bị cột ở sân đền, trong bóng tối, nó bò tới bò lui trong khoảng giới hạn của
chiều dài sợi dây nịt. Những đêm như thế là những đêm người mẹ được yên dạ.
Nhưng cũng có đêm đứa bé bị cột, la khóc ôi ối, làm người mẹ sốt ruột. Người mẹ
gấp gáp đi một trăm vòng, bước những bước t