
tối, lại thêm gió ở bên sông nổi lên rất lớn, người đàn bà
đó không biết vì sao lại trượt chân rơi xuống dòng sông nước xiết, bị
sóng nước cuồn cuộn nhấn chìm, vĩnh viễn không thấy nhân ảnh.
Bà
ấy đã ra đi như vậy, để lại trên đời hai đứa con thơ dại. Ông cụ ngoại
tôi lúc đó vẫn còn can đảm nhờ một người quen đưa hai đứa trẻ quay về
quê nhà ở Giang An, bảo người vợ đã bị ông ta chối bỏ giữ lại và chăm
sóc chúng. Nhưng hoang đường hơn cả là bà cụ ngoại tôi chẳng nói nửa
lời, chỉ lặng lẽ gật đầu đón nhận hai đứa trẻ thơ. Tất cả mọi người
trong họ hàng làng xóm đều cho rằng cụ ngoại tôi nhất định đã bị điên,
bởi chỉ có điên mới làm như vậy. Bọn họ cho rằng bà làm như vậy là bởi
muốn người đàn ông trước đây đã từ bỏ mình nhìn thấy tấm lòng nhân ái
của bà mà hồi tâm chuyển ý.
Ba đứa con của mình, cộng thêm hai
đứa con của người khác, một người phụ nữ nhỏ bé yếu đuối chỉ dựa vào
việc giặt quần áo cho người khác kiếm sống, cùng lúc phải nuôi đến sáu
miệng ăn, mà lúc này đang là ở giữa thời kỳ tám năm kháng chiến chống
Nhật, máy bay của người Nhật đã oanh tạc đến tận thị trấn nhỏ bé của
vùng đất Giang An, Tứ Xuyên này, người dân nơi đây cả ngày phải luôn
trong tư thế sẵn sàng để trốn tránh sự tập kích của máy bay, người người không thể sống được, trăm họ lầm than, cuộc sống cơ cực bần hàn, thử
hỏi trong hoàn cảnh như vậy thì có thể tìm được ở đâu ra nhiều quần áo
mà giặt?
Còn ông cụ ngoại, sau khi bỏ lại hai đứa con vốn là thứ
gây phiền toái rườm rà cho mình cho vợ cũ, liền một mình vượt biển đến
Thượng Hải, muốn nhân cơ hội đất nước đang loạn lạc tìm một sự đổi thay
nào đó. Dựa vào gia thế và tài văn chương của mình, cụ đã bằng mọi cách
tìm được một chức vị không đến nỗi nào ở trong Bộ Tư lệnh cảnh bị của
Quốc dân đảng ở Thượng Hải. Sau này còn liên tiếp được đề bạt thăng quan tiến chức, con người trở nên hớn hở đắc ý. Khi mới bắt đầu đến Thượng
Hải, cụ còn thỉnh thoảng gửi tiền tiêu vặt về cho cụ bà ở quê nhà. Về
sau, cụ lại yêu một người phụ nữ ở Giang Nam, rồi rất nhanh chóng cưới
người ấy làm vợ. Từ đó đoạn tuyệt luôn tất cả liên hệ với gia đình ở
quê. Bà cụ ngoại sau khi nhận trọng trách nặng nề nuôi hai đứa con riêng của chồng, đổi lại không phải là việc hồi tâm chuyển ý của ông cụ
ngoại, mà là giúp ông giảm bớt những khó khăn phiền toái, để ông rảnh
rang sống cuộc sống phong lưu ung dung tự tại ở nơi khác.
Cuối
cùng vào năm 1949, cách mạng Trung Quốc thắng lợi, mở ra một đất nước
Trung Quốc mới, Cộng sản đảng thay thế cho Quốc dân đảng, một chính
quyền mới thay thế cho một chính quyền cũ. Những người làm quan lớn
trong Quốc dân đảng trước đây, kẻ thì bị xử bắn, kẻ thì bị bắt làm tù
binh. Ông cụ ngoại của tôi may cũng chỉ là một viên quan nhỏ của Quốc
dân đảng nên không bị quy vào hai hình phạt trên, nhưng cụ vẫn bị xem là một phần tử phản động nên đã bị đuổi về quê nhà theo nguyên quán là ở
Giang An, Tứ Xuyên, trở thành một kẻ sa cơ thất thế. Đương nhiên lúc
này, người vợ người Giang Nam mà cụ đã cưới ở Thượng Hải không chút do
dự đã dứt tình đoạn tuyệt với cụ, lập tức bỏ đi. Sau khi cụ về đến quê,
liền quay về nhà đau khổ cầu xin bà cụ ngoại tha thứ, thật là thảm
thương. Lúc này mấy người con của họ đã lớn, tất cả đều thống nhất ngăn
cản không cho bà cụ ngoại tha thứ cho cụ, không cho bà mở cửa đón người
đàn ông vong ân bội nghĩa ấy vào nhà. Nhưng bà cụ ngoại đã nói với các
con của mình rằng: “Tuy ông ta không ra gì, nhưng ông ấy vẫn là cha của
các con!” Ai dà, cuối cùng người đàn ông mà họ gọi là cha kia, do trải
qua những biến động chính trị lịch sử, bị đày về nơi xa xôi hẻo lánh,
đất đai khô cằn sinh sống. Trong một buổi chiều tà, người đàn ông ấy đột nhiên rơi xuống một cái hố bên bờ ruộng, làm cách nào cũng không thể bò lên được, cũng coi như là kết thúc một đời hoang đường phiêu bạt của
ông ấy.
3. Chuyện về bà ngoại tôi
Trong ký ức của tôi, bà
ngoại thực sự là một đại mĩ nhân, bà đẹp vô cùng. Lúc tôi còn nhỏ, nghe
mẹ tôi kể lại, hai chị em gái của mẹ cộng lại cũng không thể bì được với sắc đẹp của bà. Bà ngoại sinh năm 1929, là năm mà đất nước đang trong
cơn chiến tranh loạn lạc. Bà chính là người cháu gái đích tôn được kị
ngoại tôi vô cùng yêu quý mà tôi đã kể ở đoạn trên. Lúc bà chín tuổi,
tận mắt chứng kiến cảnh bà ngoại của mình treo cổ tự vẫn, thật thê thảm. Sau đó vì kế sinh nhai, bà phải cùng mẹ ra ngoài giúp người ta giặt
quần áo. Không những thế, bà còn tự mình cáng đáng nhiệm vụ chăm sóc hai đứa em, một trai một gái của mình.
Tuy nhiên số phận của bà
ngoại tôi tốt hơn nhiều so với mẹ mình, hai số phận ấy về bản chất thực
sự không giống nhau. Trước hết, bà ngoại tôi không phải là người mù chữ, mà là một người phụ nữ có tri thức, có văn hóa. Vì sao lại như vậy ư?
Khi nói đến điều này thì công đầu thuộc về mẹ của bà, tức là cụ ngoại
tôi. Cụ ngoại tôi luôn cho rằng, bản thân mình, ngay trong đêm đầu tiên
động phòng hoa chúc đã gặp phải cảnh bị chồng ruồng bỏ, hoàn toàn là do
bản thân mình không biết chữ, là người không có văn hó