
c đường cùng,
cơm không có mà ăn. Để nuôi sống gia đình, cụ ngoại tôi bắt đầu phải lao ra ngoài tìm những việc lặt vặt để làm thêm. Ban đầu là giúp người ta
thêu thùa may vá, rồi nhặt rau nấu cơm, nhưng những việc vặt ấy trong
thực tế cũng chẳng kiếm được bao nhiêu tiền, không đủ chi tiêu cho gia
đình. Về sau, bà dứt khoát đòi đi giặt quần áo thuê cho người ta, bất
luận là vào đông hay tháng chạp, mỗi ngày từ sáng sớm đến tối mịt, cụ
ngoại tôi đều cúi gập lưng ngồi trước chậu quần áo lớn, hai tay chà xát
trên tấm ván giặt đồ. Chưa đến 30 tuổi, cụ đã bị bệnh đau lưng.
Thực ra, nếu như cứ dựa vào sự lao động vất vả của ông cụ ngoại và bà cụ
ngoại tôi, thì cái gia đình ấy cũng có thể tiếp tục gắng gượng duy trì
được cuộc sống. Nhưng ông cụ ngoại tôi với bản tính ngang ngược kiêu
ngạo, lại nghĩ rằng chính ở cái nơi xa xôi hẻo lánh này đã chôn vùi tài
năng và văn chương của ông, cho nên vào một ngày mùa thu, ông đã xuống
thuyền đi đến một thành phố lớn hơn tên là Du Châu (Trùng Khánh hiện
nay). Không ngờ vừa đi được nửa đường, ông cụ ngoại đột nhiên mắc chứng
thổ tả, miệng nôn trôn tháo, cả người xanh xao vàng vọt, cuối cùng ông
không thể tiếp tục đi được nữa, đành xuống thuyền vào một huyện nhỏ gần
đó, tìm một nhà nghỉ và ở lại đó. Nhưng chính trong thời gian ở đây, đã
phát sinh ra một câu chuyện phong lưu bạc tình sau đó.
Ông cụ
ngoại không chỉ kế thừa gien di truyền văn hay chữ tốt, mà còn đồng thời thừa hưởng luôn cả đức tính phong lưu đa tình của cha mình. Ban đầu ở
nhà trọ vốn là để dưỡng bệnh, nhưng điều không thể ngờ được là cụ lại
đầu mày cuối mắt với bà chủ nhà trọ, cuối cùng hai người cũng qua lại
với nhau. Bà chủ kia vốn dĩ là người phụ nữ đã có chồng, là mẹ của hai
đứa con trai, nhưng thật không ngờ khi gặp cụ ngoại tôi lại giống như
củi khô gặp lửa lớn, bùng cháy dữ dội, chỉ trong vòng một tuần, người
đàn bà ấy đã vứt bỏ tất cả, cùng cụ ngoại tôi lén lút chạy trốn, chẳng
để lại chút tông tích gì.
Nhưng điều không thể tưởng tượng được
là chồng của người đàn bà họ Trương đó lại dẫn theo một đám người, tìm
đến tận nhà cụ ngoại tôi ở An Giang, đòi cụ ngoại tôi trả lại vợ cho
hắn, nếu không sẽ đến nha môn tố cáo Tô gia. Cụ ngoại tôi, một người đàn bà chân yếu tay mềm, tính cách nhu nhược, lại còn mù chữ, giờ không chỉ mất đi người chồng, mà còn bị chồng của người đàn bà đã cướp chồng mình đe dọa, bà chỉ biết nhỏ những giọt nước mắt khóc thương cho thân phận
mình. Cuối cùng ở trong gia tộc vẫn còn một vị trưởng bối làm quan trong nha môn đã giúp bà đuổi đám vô lại ấy đi.
Giờ đây chồng đã trốn
đi cùng người đàn bà khác, bỏ lại cho bà cả một gia đình nghèo rớt mồng
tơi, nghèo xơ nghèo xác, đến ba bữa cơm cũng không đủ no. Ở đoạn trên
khi tôi kể về việc kỵ ngoại treo cổ tự vẫn trong phòng ngủ chính là ở
giai đoạn này. Ba đứa con nhỏ, người con lớn nhất là bà ngoại tôi, lúc
này mới chín tuổi, đã phải vừa đi ra ngoài phụ giúp mẹ giặt quần áo cho
người ta, vừa phải thay mẹ chăm sóc hai em, một trai một gái. Cụ ngoại
tôi đã phải ngậm đắng nuốt cay như vậy để cáng đáng gia đình sống qua
ngày. Cứ tưởng rằng như vậy đã được yên, nào ngờ một ngày cụ bất ngờ
nhận được một bức thư, trong đó là tờ “giấy từ hôn” của ông cụ ngoại gửi về.
Cái gọi là “giấy từ hôn” ấy thực ra là gì? Đó chính là một
trong những luật hôn nhân cổ hủ và hoang đường nhất của đất nước Trung
Quốc ngày xưa: Trong một cặp vợ chồng, chỉ cần người chồng bằng lòng và
có kinh tế, thì người đó có thể cưới năm thê bảy thiếp là chuyện hoàn
toàn hợp pháp; và cũng chỉ cần người chồng này đưa ra bất kể một nguyên
nhân hay lí do gì, hoặc chẳng cần có lí do gì cả, anh ta không muốn tiếp tục sống với người vợ hoặc người thiếp nào đó của mình thì có thể tùy ý viết trên giấy trắng mực đen rằng mình quyết định cắt đứt mọi quan hệ
với người đó, tờ giấy này gọi là “Giấy từ hôn”. Anh ta chỉ việc gửi tờ
giấy này cho người phụ nữ đó, thì lập tức lại được trở lại là người tự
do không có ràng buộc gì, cũng không cần phải đến tòa án, không cần mời
luật sư, không cần phải đóng góp tiền phụ cấp, không cần phải gánh vác
bất kỳ một trách nhiệm gì; Còn người phụ nữ đáng thương, khi nhận được
tờ “giấy từ hôn” đó, lập tức trở thành người vợ “hạ đường”[1'>, đại đa số đều bị đuổi quay trở về nhà mẹ đẻ, từ đó trở đi, không còn dám ngẩng
mặt lên nhìn hàng xóm nữa, sống một cuộc đời thừa vô cùng thê lương buồn bã.
[1'> Người vợ không còn ở trong chính phòng nữa.
Cụ
ngoại tôi đã nhận được tờ “giấy từ hôn” như vậy. Nhưng nếu như chỉ là cụ một mình dẫn theo ba người con ra đi vùng vẫy khốn khổ kiếm sống qua
ngày thì cũng còn là tốt, thế mà về sau còn phát sinh ra một việc mà
việc ấy mới gọi là không thể chấp nhận được.
Sau vài năm, ông cụ
ngoại và người đàn bà họ Trương đã cùng ông chạy trốn sinh được hai
người con một trai một gái, có thể là do gặp phải sự quả báo của trời
đất, mà vào một buổi chiều hoàng hôn, khi cả bốn người trong gia đình
đang ở bên sông Trường Giang chuẩn bị xuống thuyền qua sông, có lẽ do
sắc trời đã