
đó lười biếng xua tay: “Các ngươi lui cả ra”.
Chúng cơ lúc này mới hay đã tránh được kiếp nạn, vội vàng khom lưng
hành lễ lui ra, Hy Hòa gọi Viên Hạnh Phương lại, lạnh nhạt nói: “Bản
cung không thích cái tên của ngươi, về đổi đi.” Viên Hạnh Phương nơm nớp lo sợ vâng vâng dạ dạ, loạng choạng đi ra.
Sảnh điện rộng lớn bỗng chốc lạnh lẽo, vắng vẻ trở lại, có cơn gió
thổi qua, bảy tầng màn sa đều tung bay phấp phới, khiến mái tóc dài của
Hy Hòa bay lên, nhìn như quỷ mị. Nàng giẫm lên những mảnh vải trên đất,
quay người chuẩn bị tiếp tục nằm trên sập, một đôi tay đột nhiên thò ra
từ phía sau, ôm chặt lấy nàng.
Hy Hòa cả kinh, đang định vùng ra, nhưng chỉ nghe người đó cười nói bên tai: “Có nhớ trẫm không?”.
Là Chiêu Doãn.
Cơ thể tuy đã thả lỏng, nhưng trong lòng vẫn khiếp sợ, không kìm được quay đầu lại, nhìn thấy đôi mắt phượng hơi xếch, đang nheo mắt cười
nhìn nàng trong ánh mắt là yêu thương vô hạn.
Quả nhiên là Chiêu Doãn.
Thấy quỷ rồi, lúc này chẳng phải y đang trên đường hồi kinh sao? Sao
lại xuất hiện trong Bảo Hoa cung? Mà trên người lại vận trang phục của
thị vệ!
“Hoàng thượng người…”.
“Sao trẫm lại về cung sớm chứ gì? Bởi vì trẫm rất nhớ Hy Hòa, muốn
gặp Hy Hòa sớm hơn một chút, cho nên suốt dọc đường vung roi thúc ngựa,
tách khỏi đại quân, trở về trước. Câu trả lời này đã được chưa?”. Chiêu
Doãn nói đoạn hôn lên gò má nàng, đang định hôn môi, lại bị Hy Hòa đẩy
ra, cười lạnh nói: “Hoàng thượng đến gặp thần thiếp lại cần ăn vận thế
này sao? Lừa ai chứ?”.
Chiêu Doãn cười ha hả, cầm chén rượu trên bàn một hơi uống cạn, sau
đó thuận thế ngồi xuống sập: “Quả nhiên vẫn là Hy Hòa hiểu trẫm, không
lừa được, không lừa được”.
Hy Hòa thấy Chiêu Doãn thần sắc vui vẻ như thế, hẳn là tâm trạng rất
phấn chấn, cuối cùng không kìm được hỏi: “Hoàng thượng gặp chuyện gì tốt hay sao mà vui vẻ thế”.
Chiêu Doãn chớp mắt: “Tru diệt phản quân, có tính không?”
Hy Hòa khẽ hừ một tiếng, nét mặt sa sầm. Chiêu Doãn lại cười một tay
kéo nàng ôm vào trong lòng, nói: “Còn nữa, trẫm bí mật gặp vài người,
hơn nữa còn tìm cho nàng một người cậu”.
“Cậu?” Hy Hòa chau mày, “Họ hàng thân thích nhà thiếp đều chết hết rồi, ở đâu ra một người cậu”.
“Cho nên mới nói là tìm được”. Chiêu Doãn bỗng ngưng cười cực kỳ
nghiêm túc nhìn nàng, nói từng tiếng rành rọt, “Hy Hòa, nàng có muốn làm hoàng hậu không?”.
Lại một trận gió từ bên ngoài thổi vào trong điện, rèm sa khẽ bay,
như mây mù tầng tầng bay bổng, đôi mắt Hy Hòa cũng giống như rèm sa,
chớp cái đã mờ mịt.
“Tại sao lại chọn thiếp?”. Chiều đầu xuân trời vẫn se se lạnh, trong
ánh nắng lốm đốm, nữ tử áo trắng tóc đen, chân trần đứng trên ngọc lưu
ly, nhẹ nhàng hỏi.
Thế là năm tiếng đó trở thành tiếng hoa nở, vừa gấp gáp lại vừa chậm
rãi, vừa ngờ vực lại vừa kinh ngạc, vừa đau khổ lại vừa vui sướng, lo
lắng trùng trùng, lại chẳng sợ điều gì.
Trên sập gấm, đế vương trẻ tuổi nắm lấy cả hai tay nàng, trong đôi
mắt sâu thẳm phản chiếu bóng dáng nàng, từng lời loáng thoáng vang lên:
“Vì có rất nhiều nguyên nhân: Không muốn từ bỏ quyền lực; không muốn
xuất hiện một Tiết Hoài thứ hai; tỏ ra yếu đuối với những nước khác, để
cho chúng tưởng rằng trẫm là một hôn quân háo sắc; còn nữa, điểm cuối
cùng là… trẫm thích nàng.”
Mùng một tháng tư năm Đồ Bích thứ tư, đế quân về kinh. Chiêu Doãn
khao thưởng ba quân, tứ phong Phan Phương làm Tả tướng quân, xử lại án
sai của cha Phan Phương đại xá thiên hạ, vạn dân chúc mừng.
Ghi chú: (1) Hai câu thơ của Khổng Nhất Nguyên, người thời Minh,
đây được coi là danh cú về trà, dịch nghĩa là: Bình sinh chẳng lấy thứ
gì. Chỉ cầu được hưởng một chén trà trong núi sâu.
(2) “Sơn hải kinh”: Là bộ cổ tích quan trọng thời kỳ Tiên Tần của Trung Quốc, cũng là một bộ kỳ thư cổ nhất, viết về thần thoại truyền
thuyết. Tác giả của cuốn sách này không rõ là ai, các học giả hiện đại
đều nhận định, đây không phải là bộ sách được hoàn thành trong một thời
điểm, và cũng không chỉ do một tác giả biên soạn. “Sơn hải kinh” có sức
ảnh hưởng rất rộng lớn và sâu sắc đối với nền văn hóa Trung Quốc nói
chung và văn học Trung Quốc nói riêng.
(3) Hòa bích Tùy châu: Hòa bích chỉ ngọc Biện Hòa, Tùy châu tức là dạ minh châu, Hòa bích Tùy châu dùng để ví với ngọc quý.
(4) Trích bài “Tá Dịch lê hoa” (Hoa lê vườn Tả Dịch) của Khâu Vi
đời Đường, Vũ Minh Tân dịch “Đẹp lạnh, coi khinh tuyết, Dẫm hương lồng
áo ai”.
(5) Linh là bộ phận trang sức mũ bằng lông chim của quan lại, kim linh là lông chim bằng vàng (ND).
(6) Cư kinh: Chỉ kinh nguyệt ba tháng có một lần.
“Cành hoa hạnh này bao nhiêu tiền?”.
Bóng tối vô biên theo câu nói này mà sáng bừng lên. Ánh sáng đầu tiên là một đốm nhỏ như đom đóm, sau đó bùng lên như ngọn lửa, tỏa thành
vầng sáng, dần dần lan rộng ra.
“Mười văn tiền”. Trong mông lung, có một giọng nữ trong trẻo mà non
nớt đáp lại. Giống như tình tiết viết trong sách từ trăm nghìn năm
trước, diễn ra theo cái cách nàng vừa quen thuộc vừa xa lạ đó.
Và rồi, trong vầng sáng đó xuất hiện một cành hoa, cành hoa màu đất,
đài hoa