
nó chưa ra bụng mẹ, nên
có thể ngâm rượu, có người còn giả hươu bao tử, vớ bẫm.
Chị Hai đừng buồn! Tuyên chị năm năm hả? Chớp mắt đã hết năm năm, lúc chị ra, thằng nhỏ đã được việc rồi.
- Chỉ làm thầy giáo, không làm thầy dùi –
Trưởng thô Cao Kim Giáp nói – Làm quan mà không vì dân, chẳng thà về nhà gánh phân, có ý kiến gì cứ nói thẳng tong, xưa kia có bao giờ tui giải
quyết những chuyện này!
Cả Phương nói: “Oâng trưởng thôn, ông phân giúp”.
Cao Kim Giáp nói: “Buồng bốn gian, anh Cả, anh
Hai mỗi người một gian, thím Tư hai gian, sau khi Thím chết – xin thím
đừng buồn, nói thực khó nghe, anh Cả anh Hai, mỗi người một gian. Hai
gian này, một to một nhỏ, nhỏ thì bù cái cổng và cái gác lửng. Nồi nêu
chén bát chia làm ba phần, tui cho rút thăm ai trúng phần nào lấy phần
nấy. Tiền bồi thường cho chú Tư và con trâu là ba ngàn sáu trăm đồng,
cho thím Tư là một ngàn hai, anh Cả anh Hai mỗi người một ngàn hai, số
dư trong tài khoản là một ngàn ba, anh Cả anh Hai, mỗi người bốn trăm,
thím Tư năm trăm, Cao Mã mà nộp một vạn, thím Tư được năm ngàn, anh Cả
anh Hai, mỗi người hai ngàn rưỡi. Đồ trang sức cho Kim Cúc khi về nhà
chồng do thím Tư mua sắm, anh Cả anh Hai thích thì mua cho, không thích
cho cũng không ép. Toàn bộ lương thực chia làm ba phần rưỡi, nữa phần ấy là của Kim Cúc. Thím Tư sau này già yếu ốm đau không đi lại được nữa
thì anh Cả anh Hai luân phiên nuôi mẹ, hoặc là mỗi người một tháng, mỗi
người một năm, khi ấy sẽ ấn định cụ thể. Đại để là như vậy, ai có ý kiến gì không?”
Cả Phương hỏi: “Còn tỏi thì sao?”
Cao Kim Giác nói: “Tỏi cũng chia ba, có điều
thím Tư có tuổi, không hiểu còn đi chợ được không? Anh Cả gộp phần của
anh với thím Tư, anh nhân tiện bán hộ có được không?”
- Oâng trưởng thôn chân cháu thế này… - Cả Phương nói.
- Vậy thì phân gộp vào phần của anh Hai!
- Oâng trưởng thôn, anh Cả không nhận thì cháu càng không nhận – Hai Phương nói.
Phương Nhất Tướng, đây có phải mẹ anh không? Lại càng không phải giúp người ngoài! – Cao Kim Giác nói.
Thím Tư nói: “Tui chẳng nhờ vả ai hết, tự tui bán lấy.”
Hai Phương nói: “Tốt nhất là thế!”
Cao Kim Giác hỏi: “Còn gì chia nữa không?”
Cả Phương nói: “Tui nhớ bố còn một cái áo bông mới.”
Thím Tư nói: “Đồ đê tiện, thế mà nó cũng nhớ ra! Cái áo để lại tao mặc.”
Cả Phương nói: “Mẹ, tục ngữ có câu: “Aùo của
cha, vải quấn chân của mẹ là của báu, phải để lại cho con cháu!” Mẹ giữ
lại làm gì?”
Hai Phương nói: “Đã chia thì cái gì cũng chia!”
Cao Kim Giác nói: “Thiểu số phục tùng đa số, thím Tư lấy áo ra đi!”
Thím Tư mở hòm, lấy cái áo bông ra.
Cả Phương nói: “Chú em, chia của ở riêng xong,
chắc chắn là tui ở vậy đến già, chú kiếm vợ không khó, cái áo này chú
nhường cho tui.”
Hai Phương nói: “Anh Cả, ăn phân thì việc gì mà vội. Còn đã chia của thì phải công bằng không ai được vớ bở, không ai
chịu thiệt thòi!”
Cao Kim Giác nói: “Một chiếc áo bông, hai người đòi lấy, chia sẻ thế nào bây giờ? Hay là lấy dao xẻ đôi?”
Hai Phương nói : “Xẻ thì xẻ.”
Hai Phương trải áo lên cái đôn gỗ, vào nhà lấy
con dao phay nhằm đường chỉ ở giữa lưng mà rạch liền mấy nhát. Thím Tư
vừa kêu gào vừa nhìn Hai Phương rạch chiếc áo làm hai mảnh.
Hai Phương cầm mảnh áo ném cho Cả Phương, nói: “Nửa này của anh, nửa này của tui, chẳng ai nợ ai!”
Kim Cúc xách hai chiếc giày rách, vừa cười vừa nói: “Đây là đôi giày của bố, anh ấy một chiếc, anh một chiếc”
Kim Cúc quẳng cho hai anh, mỗi người một chiếc giày. Ông thích bắt thì ông cứ bắt
Tui đã nghe đọc “Bộ luật hình”
Mù mà phạm tội không phạt nặng
Vào tù rồi mà tui vẫn không câm miệng!
“Mày không câm miệng thì tao bịt
miệng mày!” Một vị cảnh sát áo trắng hùng hổ tuyên bố, vừa nói vừa giơ
dùi cui điện, “soạt” một tiếng, chùm tia lửa xanh phụt ra, “Tao bịt
miệng mày bằng chiếc dùi cui này!” – Cảnh sát vừa nói vừa chĩa dùi cui
điện vào miệng Khấu mù. Đây là chuyện xảy ra tại một ngõ nhỏ ngay chỗ rẽ vào huyện lỵ, ngày 29 tháng 5 năm 1987.
Phía trước, một Chính phủ nam dẫn đường, bên
phải, một Chính phủ nam tì súng ngắn vào lưng anh, đi trên hành lang dài dằng dặc của khu giam giữ. Các buồng giam nối tiếp nhau, giống nhau như lột từ cửa sắt màu xám đến cửa sổ sắt nhỏ xíu, chỉ có chữ số Ả rập là
khác nhau. Sau mỗi cửa sổ đều có phạm ngóng ra ngoài, những bộ mặt sưng
bủng, nhợt nhạt. Anh run lên, bước đi khó khăn. Một phạm nữ cười khúc
khích sau song sắt: “Chính phủ ơi Chính phủ, tui gửi hai hào, Cchính phủ mau hộ cuốn giấy vệ sinh kinh nguyệt!” Chính phủ namchửi: “Con lưu
manh!” Cao Dương ngoảnh sang nhìn phạm nữ, Chính phủ dùng đầu nòng súng
thúc anh một cái, giục: “Đi nhanh lên!”
Đi hết hành lang, chui qua một cổng sắt, bước
lên cầu thang vừa dốc vừa hẹp bằng gỗ, đôi chỗ đã bị mục, giày da Chính
phủ nện côm cốp, còn anh đi chân đất, tiếng chân không to. Bước lên cầu
thang gỗ ấm chân hơn nhiều so với đi trên nền xi măng ướt át của buồng
giam. Cầu thang cao đến nỗi tưởng như không bao giờ hết. Anh thở hồng
hộc, đầu óc quay cuồng vì cầu thang xoáy trôn ốc. Nếu không có nòng súng thúc sau