
đuổi nỗi đau khổ tột cùng đương dày vò tim óc
nàng. Bèn hỏi Giang mà như mớm lời cho nó:
- Sư phụ của em là người tính tình dũng mãnh, chắc phải khó chịu khi
thấy Oa Tử hay khóc. Oa Tử dùng nước mắt để làm cho người khác thường
chứ gì, cũng như những ả kỹ nữ ở Kyoto vậy. Thật đáng ghét !
Giang phản đối:
- Không phải. Thạch sư phụ yêu Oa Tử cô nương. Ông không bao giờ tỏ tình nhưng tiểu đệ biết ông yêu cô Oa Tử lắm.
Lời nói của Giang là giọt nước cuối cùng làm tràn bát nước đầy. Mặt A Kế Mỹ tái xanh, nàng thở hổn hển.
- Cô nương sao thế ?
- Không ! Không sao cả !
- Tiểu đệ đưa cô nương về nhé ?
A Kế Mỹ gạt tay Giang:
- Mặc ta. Ta không muốn về đấy đâu !
Giang tần ngần một lúc, định bỏ đi rồi lại không nỡ. Nó không hiểu được
người lớn đã đành, nhưng A Kế Mỹ tuổi chẳng hơn nó bao nhiêu sao cũng có những hành động khó hiểu vậy !
- Giang ! Dẫn ta lại cái quán đằng kia cho ta nghỉ chút.
- Đằng ấy là quán rượu mà !
- Càng tốt. Ta muốn uống chút rượu. Còn em thích ăn gì cứ gọi.
Giang dẫn A Kế Mỹ vào quán. Nàng gọi một bình rượu lớn và vài cái bình
cho Giang. Rượu mang ra, A Kế Mỹ rót uống hết chén này đến chén khác,
mặt lầm lì tái ngắt.
Thấy A Kế Mỹ uống rượu không ngừng, Giang hoảng sợ:
- Cô nương uống nhiều quá !
- Kệ ta ! Không việc gì đến ngươi. Ngươi là bạn Oa Tử phải không ? Ta ghét ngươi, ta ghét con Oa Tử, ta ghét Thạch Đạt Lang.
- Cô nương say rồi, trả tiền đi rồi về.
- Chưa say. Ta muốn uống nữa. Chủ quán đâu ? Cho thêm bình rượu !
Giang đưa mắt nhìn chủ quán ra hiệu đừng mang rượu đến.
- Cô nương có tiền trả không ?
- Tiền hả ? Sao ta lại không có ! Ta đã bán thân cho Thôi Nãi Phu rồi mà ! Đến lữ điếm mà đòi, ha ... ha ...
Chủ quán có lẽ đã quen với những cảnh như thế này nhiều lần, lạnh lùng nhìn nàng, sau thương hại bảo Giang:
- Say quá rồi, dẫn về đi. Mai đến trả tiền cũng được !
Giang dìu A Kế Mỹ ra khỏi quán. Bóng tối ngõ hẻm đổ lên đầu hai người.
Cơn gió lạnh thổi qua, Giang rùng mình, tưởng nghe tiếng than khóc của
những linh hồn đau khổ nào. Nó không để ý tới một bóng đen từ trong hẻm
bước ra theo chân nó và A Kế Mỹ.
- Giang ! Đừng dẫn ta về đấy làm gì. Dẫn ta đến chỗ thầy ngươi.
- Đệ biết Thạch sư phụ Ở chỗ nào đâu !
- Vậy đưa ta ra bờ sông. Gió mát làm ta đỡ bực bội.
Ra đến bờ sông, A Kế Mỹ cầm tay thằng bé:
- Thôi em về đi, để ta ngồi đây.
Một ý nghĩ thoáng hiện, Giang hoảng hốt kêu lớn:
- Đừng ! Đừng ! Cô nương đừng làm thế !
Thình lình có một vật gì đập mạnh vào đầu khiến Giang ngã lăn ra bất tỉnh.
Bóng đen theo chân nó và A Kế Mỹ nhảy tới vừa kịp đỡ thân người thiếu nữ không để nàng gieo mình xuống nước. Gã vác A Kế Mỹ lên vai, chạy mất
hút vào trong đêm tối.
oo Giang mở mắt, nhiều người đứng lố nhố xung quanh. Kẻ cầm đèn lồng, người mang gậy gộc.
Họ vui mừng thấy nó đã tỉnh. Hỏi thăm về thiếu nữ cùng đi với nó, nó
cũng chẳng biết bị ai bắt và bắt dẫn đi hướng nào. Lại thấy nó không bà
con thân thích gì với nàng, mọi người đều lấy làm lạ.
Một mình lủi thủi trở về phòng trọ, Giang bỗng nhớ đến câu đồng dao bạn bè nó vẫn vỗ tay hát khi còn nhỏ:
Này ông phỗng đá Đứng giữa đồng không, Thấy cô gái nhỏ, Mái tóc rối bồng, Dòng đời lỡ bước, Lạc tới đây chăng ?
Hỏi phỗng, phỗng chẳng nói năng ...
Đánh phỗng, phỗng chỉ nhăn răng phỗng cười. Len lỏi giữa những ngõ tối khu ven
sông, Giang cắm cúi đi, trong lòng nơm nớp sợ bọn người kia gọi lại vặn
hỏi lôi thôi và có thể bắt nó giải lên quan trấn thủ không biết chừng.
Nó không biết sẽ phải đối đáp ra sao trước những câu hỏi của bao nhiêu
người lạ mà nó đoán sẽ gay gắt lắm, về A Kế Mỹ, về thầy nó, về Oa Tử. Và trần tình như thế nào trước mặt Đại Cổ khi ông hỏi nó tại sao đi cùng
với một kỹ nữ vào tiệm nước.
Nó biết Đại Cổ chẳng ưa gì giới ăn chơi, nhất là giới kỹ nữ. Vả hơn nữa, ông đã dặn nó phải ở nhà trong khi ông đi vắng. Tất cả những điều ấy,
khi nghĩ đến, khiến nó bồn chồn lo lắng và giục nó bước mau.
Vết thương còn hơi nhức, Giang lấy tay sờ đầu không thấy máu thì yên
bụng. Cơn gió thốc vào mặt, luồn qua khe áo phong phanh khiến nó run
rẩy. Nó cố giữ cho hai hàm răng khỏi đánh vào nhau lập cập.
Nhìn ra xung quanh, Giang không khỏi ngạc nhiên. Cảnh vật lạ hoắc, khác
hẳn với những khu phố đã đi qua hồi nãy. Nhà cửa thưa dần, tối đen, im
lìm. Quay nhìn lại chẳng thấy có quán xá hay bất cứ dấu vết gì của sự
sinh hoạt náo nhiệt nữa. Tuy về phía chân trời, ngọn Chichibu vẫn yên
tĩnh nhưng chỗ Giang đứng có một cái gì hoang phế làm nó rờn rợn.
Đây là cuối ngõ và xa hơn nữa là bãi hoang. Một con đường mòn chạy ngoằn ngoèo qua bãi hoang khuất sau vách đá dựng đứng của một tòa lâu đài cổ. Tòa lâu đài, dường như bị bỏ phế lâu ngày, đã điêu tàn; cây dại, bụi
gai chen nhau mọc lấp cả chân tường và lối vào. Mái ngói hư nát trơ
những kèo và đầu mè đen sì. Dưới ánh trăng non, trông chúng tựa những rẻ sườn của một xác chết.
Xung quanh tòa cổ lâu chẳng có vết tích gì gọi là tường hay hào bao bọc. Trước kia, đây hẳn là chỗ ở của một lãnh chúa địa phương, sau khi sa
sút, con cháu bỏ đi lập nghiệp