
- Chẳng mấy thuở được gặp anh Hai... Xin kính
mời chị Hai quá bước lên quán, dùng một chén rượu mọn với anh em chúng tôi.
Má nuôi tôi "cám ơn" và từ chối năm
lần bảy lượt không xong, đành phải đội khăn bước lên quán. Món thịt kỳ đà nấu
ca-ri nước cốt dừa cũng vừa bưng dọn ra bàn bốc khói thơm lừng. Cả gia đình
chúng tôi, ba ông phường săn kỳ dị và ông chủ quán lùn tịt cùng ngồi vào bàn,
dùng bữa cơm tối một cách hết sức vui vẻ. Cả con Luốc cũng có phần một bát thịt
to tướng trộn cơm nguội mà ông chủ quán đã có "nhã ý" dọn riêng cho
nó trước sàn cầu.
- Bao giờ giặc tấn công tới đây, chúng ta sẽ
liệu. Còn bây giờ, làm nghề cứ lo làm nghề. Còn phải nghĩ tới miếng sống chứ.
Tôi nói vậy, liệu có phải không chị Hai?
Người đàn ông cao lêu nghêu bắt đầu làm quen
với má nuôi tôi bằng câu mở đầu ấy. Người đàn ông thấp lùn vội nói tiếp theo:
- Ắt chị Hai vui lòng để anh Hai cùng đi làm
ăn với chúng tôi chứ?
Má nuôi tôi cầm bát lên tay, nhìn tía nuôi
tôi:
- Xin các chú hỏi ông nhà tôi. Chứ tôi là phận đàn bà!
Ông
chủ quán ngứa miệng, vung hai tay lên:
- Chị
Hai còn theo xưa quá. Người ta nói nhất vợ nhì trời mà!
Mọi
người đều cười, khiến ông chủ quán cứ xoay quanh hết nhìn người này đến nhìn
người khác, lắc la lắc lư ra vẻ đắc chí với câu pha trò của mình lắm. Không
biết có phải vì có mặt má nuôi tôi mà các ông già trở nên lịch sự, vui vẻ và hoạt
bát hẳn lên không? Ông cụ già bịt khăn đỏ hỏi má nuôi tôi một cách khoan thai:
- Ngày
xưa, chị Hai cũng theo nghề câu chứ?
Má
nuôi tôi lắc đầu:
- Tôi
sợ lắm. Chỉ có ông nhà tôi thôi. Tôi chỉ câu lòng tong cá chốt, chứ thứ đó tôi
sợ lắm!
Người
đàn ông cao lêu nghêu nhếch mép cười, bàn tay đưa lên gãi gãi cái đầu trọc nhẵn
thín:
- Nói
không phải phô phang với chị Hai và các anh tôi đây, chứ thuở mười ba mười bốn
tuổi, tôi đã theo ông nội tôi đi bắt cá sấu như bắt cá lóc rộng trong khạp vậy
thôi. Vào mùa khô, chúng tôi lội vào rừng cỏ, men theo những cái bàu giữa rừng
tìm cá sấu. Hồi đó, cá sấu còn nhiều lắm. Bàu nào cũng có. Không nhiều thì ít.
Tệ lắm cũng năm bảy con trở lên. Bà con quen gọi là ao cá sấu. Chọn được ao sấu
nào có nhiều sấu hoa cà rồi, chúng tôi mới phát sậy, phát cỏ rũ xuống phơi nắng
vài ngày cho khô. Dùng thuổng đào một đường nhỏ từ mé ao lên rừng, càng xa bờ
càng cạn dần, chừng mươi thước. Sau đó mới ôm sậy, cỏ khô thả xuống cho phủ kín
mặt bàu và ném lửa đốt cháy...
Thằng
Cò buột miệng hỏi:
- Cho
sôi nước, cá sấu chạy lên bờ phải không chú?
- Cậu
em này đoán gần đúng! Nhưng không phải vậy đâu. Nước lênh láng cả bàu, làm gì
sôi được? Ừ, mà nếu mình thả bổi khô xuống thật dày, thả liên tục, đốt nóng
nước thì nó cũng có thể chạy lên... Thả bổi xuống rồi, mình ném lửa đốt cháy.
Khi lửa tắt thì mặt bàu đã bị phủ kín dưới một lớp tro dày chừng hai ba đốt
tay. Cá sấu trừng lên thở thì bị tro cay mắt, trầm lâu thì ngạt, mà hễ bị tro
cay mắt là y như trự ta đập đuôi chạy chạy lên bờ tức khắc. Mà không phải chạy
lung tung đâu. Chúng nối đuôi nhau trườn theo con đường mương đào sẵn, bò lên
rừng. Thấy người, con nào cũng há họng ra, toan đớp. Ông nội tôi bèn đút vô
họng nó một khúc gỗ mớp, dài chừng ba tấc. Nó liền táp phậm một cái, hai hàm
răng dính chặt lại như ngậm cục kẹo mạch nha, không há ra được. Tôi lập tức cầm
mác xắn trên sống lưng, chỗ giáp chân sau, để cắt gân đuôi. Cái đuôi chỉ còn có
nước đập qua đập lại nhè nhẹ, như đuổi ruồi, chứ còn quật nổi ai? ông cháu tôi
bèn lấy dây lạt dừa trói thúc ké hai chân sau lên lưng, còn hai chân trước thả
tự do. Khớp mõm xong rồi, bỏ đấy, bắt con khác... Ui chao!... Ui chao! Có bàu,
chúng tôi bắt vài chục con trong một ngày. Cứ ba con thì dùng bốn đoạn tre buộc
xâu lại một hàng ngang, như kiểu ta cặp gắp nướng chả. Rồi lấy hai cây tre dài
kiền tất cả, xếp dính liền thành một dọc dài, hướng đầu chúng nó tới trước. Sau
đó mới phát sậy, dọn một đường như đường cộ trâu từ bàu chạy thẳng ra bờ sông
nào gần nhất. Thế là hai ông cháu tôi nhảy lên đứng giữa lưng bầy quỷ sứ đó,
mỗi người cầm một cây mun quơ quơ đập vào hai cây tre dưới chân, hét lên. Chúng
nó cứ theo đường dọn trống ấy, kéo nhau đưa nguyên đàn, bò ra bờ sông. Bao giờ
cũng có thuyền lái mua chực sẵn ở đó. Gặp khi chẳng có lái mua thì mình chịu
khó tháo ra, khiêng từng con bỏ xuống thuyền của mình, chở đi bán... ấy, ngày
xưa chúng tôi săn cá sấu dễ ợt như vậy đó, anh Hai chị Hai ạ!
Tía
nuôi tôi ngồi nghe chăm chú. Chắc câu chuyện của người phường bạn vừa kể đã gợi
lại trong ông những ngày mình còn là anh thợ câu lận đận ở mạn Tiền Giang.
Chẳng vậy mà ông đã chống hai khuỷu tay lên mặt bàn, hai bàn tay to lớn ngửa ra
đỡ lấy cằm, mặt đăm chiêu hồi lâu:
-
Ở vùng tôi, bắt được một con cá sấu có khi phải mất vài ba con vịt sống làm
mồi. Nhiều công mà cũng tốn kém. Dạo đó, năm nào trên Biển Hồ hoặc Nam Vang
cũng chở cá sấu về bán ở các chợ tỉnh dọc sông Cửu Long, hết bè này tới bè
khác. Hàng trăm con một