
chiếu ánh mặt trời như một dòng thủy ngân cuồn cuộn trôi về
hướng biển. Mây đen từ chân trời đùn lên, vẩn hình mặt quỷ, rủ nhau quần tụ một
chỗ không chịu bay đi. Rồi dông kéo tới ào ào, mưa như trút nước xuống như thác
đổ hơn một ngày đêm. Sóng gầm thét không lúc nào ngớt. Chúng tôi phải chui
thuyền vào núp trong một rạch lá dừa nước um tùm, chờ cho dứt cơn mưa dữ mới
quay ra sông chèo đi.
Một buổi chiều, tía nuôi tôi cho thuyền cập
lại bên ngôi quán lá cất nhoai ra bờ nước. Chúng tôi buộc thuyền vào trụ sàn
cầu, nơi đã có hai chiếc tam bản lớn của những ông khách ngồi trong quán cắm
sào đỗ lại đó từ bao giờ. Thấy có người đến, họ ngóng cổ ra nhìn rồi lại quay
vào tiếp tục cuộc rượu bày trên chiếc bàn tròn giữa quán. Tía nuôi tôi rướn
người bước lên sàn cầu lát toàn bằng những cây mắm nhỏ. Cứ mỗi bước ông đi tới,
những cây mắm lại kêu lắc rắc dưới chân. Con Luốc lập tức phóng lên theo. Tôi
gọi "Luốc! Luốc!" và lấy cớ đuổi theo giữ con chó để nhảy lên theo
nó. Một con kỳ đà bị trói chặt bốn chân bằng sợi dây thép, nằm khoanh gần chỗ
cửa. Con Luốc xô tới, chồm chồm vào con kỳ đà sủa váng lên. Bấy giờ, ba người
khách rượu mới quay ra, gật gù, vẻ như muốn chào làm quen với tía nuôi tôi. Một
ông cụ già cởi trần, râu quăn queo, vận xà-rông đen, đầu bịt khăn lụa đỏ, người
cao lớn như tía nuôi tôi, đứng lên cất giọng ồm ồm:
- Chào ông bạn!
Hai người đàn ông kia hơi có tuổi, gầy gò,
đầu cạo trọc như nhau, mỗi người vận một cái khố nhuộm màu vỏ cây. Họ giống
nhau một cách rất buồn cười, chỉ khác là một người thì cao quá, còn một người
lại thấp quá. Cả hai cùng đứng lên gật đầu chào tía nuôi tôi. Tía nuôi tôi đứng
lại nhìn họ một lát rồi bỗng nhiên ông chếch cánh tay phải lên, tay trái áp vào
ngực, nghiêng người tới trước, nói cách trịnh trọng:
- Kính chào các ông bạn!
Ba người kia vội vã cùng một lúc đưa tay lên
chào đáp lễ y như kiểu chào của tía nuôi tôi. Tôi đứng ngớ ra nhìn, ngạc nhiên
quá đỗi. Về sau, mới biết đó là lối chào ra mắt của các phường săn cá sấu khi
gặp nhau muốn tỏ tình thân. Chủ quán là một ông già lùn tịt, lật bật như con
rối, từ sau bếp chạy ra, vác một gộc cây đặt xuống cạnh bàn rượu, giọng lăng
xăng:
- Mời ông khách! Mời ông ngồi xuống đây!
Mùi thịt nướng từ trong bếp bay ra khét lẹt.
Và khói cũng từ trong cái bếp lò thấp thoáng sau quầy rượu cuồn cuộn bay ra, như
làn khói đốt đồng cỏ tháng tư.
- Cháy miếng thịt mất rồi!
Tôi vội kêu lên, và thản nhiên không chú ý
tới mọi người ngồi đó, cứ đi thẳng một mạch vào bếp. Tôi cầm cái que cời dập
bớt than, rồi trở gắp thịt đặt lên nướng phía bên còn chưa chín.
- Để đó cho qua, chú em!
Ông chủ quán chạy vào, vừa nói líu ríu bằng
giọng khen ngợi vừa với tay cầm chai rượu dựng bên cạnh lò. Tôi đáp cách bình
thản, nhưng cũng rất tự hào:
- Cháu giúp bác một tay, được mà!
Rồi tôi mỉm cười một mình, chợt nhớ tới
"thằng bé hầu rượu" trong quán dì Tư Béo. Ông cụ già bịt khăn lụa đỏ
đỡ lấy chai rượu trên tay chủ quán, rót đầy vào một cái bát lớn đặt giữa bàn mà
họ đã uống vơi gần quá nửa.
- Kính mời ông bạn! Làm một hớp cho ấm bụng.
Chẳng hay ông bạn từ đâu tới?
Tía nuôi tôi đáp, giọng từ tốn:
- Tôi là người vùng U Minh thượng... Giặc
Pháp đã vào tới đó. Nay lênh đênh phiêu giạt... Còn chưa biết về đâu.
Hai người đàn ông đầu cạo trọc đưa mắt nhìn
nhau. Tía nuôi tôi bưng bát rượu lên nhấp một hớp; chừng như đoán ra ý họ, ông
đặt bát rượu xuống bàn, nói chậm rãi:
- Phải, tôi là người U Minh thượng. Nhưng
nguồn cội tận xứ Tiền Giang kia. Thuở còn trẻ tráng, tôi cũng đã lặn lội nhiều
năm trong nghề hạ bạc. Nghèo như chiếc lá rụng xuống dòng sông, nước trôi tới
đâu mình theo tới đó. Bấy nay tôi theo nghề rừng, chẳng qua cũng vì mưu sinh
theo hoàn cảnh, chuyện đó có chi là lạ...
Người đàn ông thấp lùn tức thời đứng phắt
dậy, dang tay ra ôm tía nuôi tôi, cười ha hả:
- Vậy thì huynh ông neo lại khúc này, trở về
nghề cũ, chúng ta hiệp nhau làm ăn, được chứ?
Tía nuôi tôi cười cười, chưa đáp ra sao. Tôi
giúp ông chủ quán dọn thịt nướng ra bàn và gọi thằng Cò lên xem ông giết thịt
con kỳ đà. Tôi cứ chạy ra chạy vào, khi thì quạt lửa, khi thì lấy tí muối ớt,
khi thì rót thêm mỡ rái cá vào đĩa thịt tự tôi tìm thấy trong bếp và mang ra
bàn rượu. Tôi cảm thấy mình bận rộn nhưng vui vẻ như thằng bé hầu rượu trước
kia. Chẳng mấy chốc mà họ đã uống cạn hai lít rượu, thứ rượu ngon nhất mà ông
chủ quán bảo chỉ để dành riêng cho khách quen sành sỏi. Rượu vào thì lời ra. Họ
nói đủ thứ chuyện về sông nước, và trong câu chuyện đã bắt đầu xưng hô anh anh
chú chú cởi mở thân mật. Dường như ba ông khách rượu ấy và tía nuôi tôi là
những người bạn cũ, xa nhau lâu ngày, giờ mới tình cờ gặp lại vậy. Khi biết ông
bạn phương xa vừa tới có "bà nội tướng" đang thổi cơm dưới thuyền,
ông cụ già bịt khăn đỏ bèn trịnh trọng bước ra sàn cầu, chắp hai tay trước ngực
hướng vào mũi thuyền, sửa giọng kính cẩn: