
>Tôi
cảm thấy bàn tay tía nuôi tôi sờ soạng đặt lên vai tôi và từ trên vai tôi, bàn
tay to lớn ấy dần dần mò xuống nắm chặt bàn tay tôi.
- Cám
ơn con. Tía cám ơn con!
Con
Luốc sấn vào bên chân chúng tôi, vướng không đi được. Tôi co chân tống nó một
cái, nó mới chịu lui ra. Tiếng súng moóc-chê trong đồn bắt đầu bắn ra, nổ ầm ầm
vào những khu rừng chìm kín trong đêm. Nghe tiếng súng bắn nhiều chừng nào, tôi
càng khoái chừng nấy.
-Vì
thù mà phải báo, chứ tía đâu màng tới chuyện giết một con đàn bà!
Đột
nhiên, tôi bỗng có cảm giác như mình đang nghe câu nói ấy vẳng ra từ một câu
chuyện cổ xa xưa nào.
Chỉ trong vòng không đầy hai tháng, mà đã có hai
tên Việt gian gián điệp lợi hại và một thằng Pháp bỏ mạng vì tên tẩm thuốc độc.
Thứ vũ khí thô sơ thời Trung cổ, lặng lẽ từ trong cành xanh phóng ra, đem lại
cái chết bất thình lình không phương cứu chữa - sự việc ấy đã gieo vào đầu óc
bọn giặc đang cầm những khẩu súng hiện đại trong tay một nỗi khiếp đảm khôn lường.
Càng sợ, chúng càng lồng lộn lên một cách dữ dội để tự trấn tĩnh và động viên
tinh thần bọn ngụy. Chúng đưa thêm tới ba tiểu đoàn, mở những cuộc càn quét báo
thù liên miên khắp các vùng rừng chung quanh. Những ngôi lều của thợ đốn củi ở
tít mãi trong rừng sâu cũng bị chúng mò tới đốt trụi. Chúng bắt dân phải dỡ nhà
về ở chung quanh đồn để làm vòng rào người, và đóng thêm bốn lô-cốt ở mấy nơi
hiểm yếu dọc bờ sông. Ngôi lều của tía nuôi tôi cũng đã làm mồi cho ngọn lửa
của giặc Pháp. Cả nhà chống thuyền sống lay lắt qua ngày trong các vùng đầm lầy
và trong các khu rừng ngập nước.
- Đành
phải đi về vùng U Minh hạ thôi, ông à!
Một
hôm má nuôi tôi thở dài, bàn với tía nuôi tôi như vậy. Bà ngồi trong mui thuyền
chật chội, nhìn ra những làn mưa trắng tuôn mù mịt xuống ngàn xanh, chậc lưỡi.
- Chỉ lo cho hai thằng bé. Dầm mưa dãi nắng
thế này, rủi chúng ốm đau nằm xuống thì lấy gì mà thang thuốc!
- Mười mấy năm trời, quen thuộc ở đây, tôi
không nỡ bỏ đi...
Tía nuôi tôi đáp, giọng
rầu rầu.
- Nhà ở đâu tức quê hương ở đó. Vậy trước kia
thì ông và tôi ở đâu? Ông sao câu nệ quá vậy? Tôi vì hai đứa nhỏ... chứ không,
tôi cứ mặc cho ông muốn ra sao đó thì ra...
Tía nuôi tôi không đáp. Ông ngồi cầm cái tẩu
dài quăn queo, gõ gõ thành tẩu vào gót chân, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn một
vài giọt mưa từ trên mui lá rơi lộp độp xuống giữa khoang thuyền ẩm ướt. Đêm
hôm đó, chúng tôi chống thuyền ra sông. Cả gia tài chúng tôi, ngoại trừ mấy cái
nồi cái niêu và một ít quần áo cũ, thì chỉ còn có mỗi chiếc thuyền này thôi.
Lúc ngang qua chỗ ngôi mộ Võ Tòng, tía nuôi tôi dừng thuyền lại, bước lên bờ.
Thằng Cò sợ ma, ngồi sát vào bên má, lại còn ôm thêm con chó vào lòng. Tôi bước
lên theo tía nuôi tôi. Trong bóng tối lờ mờ, dưới vòm trời ảm đạm le lói một
vài ngôi sao xa lắc, ông đang ngồi phệt bên nấm mộ, đầu cúi xuống, bàn tay lơ
đễnh đưa đi đưa lại nhổ những cọng cỏ dưới chân. Nghe tiếng chân giẫm sột soạt
trên cỏ ướt, tía nuôi tôi ngước lên nhìn và vẫy tay ra hiệu cho tôi ngồi xuống
bên ông.
-Tôi và thằng cháu lên từ biệt chú nó đây!
Tía nuôi tôi ngó vào ngôi
mộ nói bằng giọng mũi ngạt ngạt.
- Tôi chỉ dùng được có một mũi tên trong số
hai mươi chiếc chú đã trao cho tôi... Nhưng tôi chắc rằng dưới suối vàng, chú
đã có thể ngậm cười mà yên nghỉ...
Dứt khoát tôi không tin rằng người chết có
linh hồn. Nhưng cái giọng trầm trầm của tía nuôi tôi đang nói với ngôi mộ, đồng
thời tôi chợt nhớ lại bàn tay vuốt cặp mắt trừng trừng khiến cho đôi mắt khép
lại, chính con người ấy đã nằm xuống dưới đất ngay trên chỗ tôi đang ngồi đây,
việc ấy đã làm cho tôi thấy rờn rợn. Tía nuôi tôi dặng hắng mấy tiếng rồi quay
sang tôi:
- Thằng An có nhớ con vượn bạc má của chú Võ
Tòng không?
- Á, nó đâu rồi, tía?
Tôi hỏi lại ông như vậy,
chứ tôi đã đinh ninh là nó chết trong trận cháy rừng rồi.
- Con vật ở rừng còn có nghĩa, huống chi con
người. Hôm Tây đốt rừng, chú Võ Tòng đi vắng, buộc nó ở lều. Nó bứt xích chạy
thoát được. Người ta trông thấy một đoạn xích bị giật đứt, còn lủng lẳng ở cổ
nó mà đoán ra như thế... Sau đó nó trở về ngồi trên nền cũ, không ăn không uống
gì rồi chết rũ xương ở đó. Có người qua ngang đấy, về thuật chuyện lại cho tía
nghe, con ạ.
- Hôm tía với con từ trong rừng chống xuồng
về, có qua ngang đó. Lúc bấy giờ nó chưa về, tía nhỉ? Giá nó về thì mình gặp nó
rồi.
Tía nuôi tôi đứng dậy thở dài, rồi bảo tôi
xuống thuyền. Ông còn quay lại, lom khom nhặt hòn đất đặt lên ngôi mộ rồi mới
bước theo tôi. Nước mỗi ngày một chảy xiết, và dòng sông càng đi tới càng mở
rộng mênh mông. Đứng trước mũi thuyền chèo cập bờ bên này mà nhìn sang bờ bên
kia, chỉ thấy một vệt dài xanh thẫm của rặng dừa nước lờ mờ trên đầu ngọn sóng.
Chúng tôi đi ròng rã ba ngày ba đêm, chỉ trừ những lúc phải dừng lại thổi cơm
ăn, còn thì cứ luân phiên nhau chèo. Mấy hôm liền, trời vẫn nắng gay gắt. Mặt
sông lao xao phản