
ia thì sao nào?”.
_“Thế rượu thì uống bằng cốc nhé?”.
_“Kinh thánh cũng có viết là rượu khuya thì hãy rót
vào cốc đấy”. Tôi bịa chuyện.
Kiku-chan vừa cười mỉm vừa rót rượu lưng cốc rồi
mang lại cho tôi.
_“Vẫn còn rượu đủ một cốc nữa đấy chú”.
_“Thôi, chừng nầy đủ rồi”.
Tôi đón lấy cốc rượu, uống một hơi cạn ly, rồi nằm
ngửa ra.
_“Nào, ngủ lại một giấc nữa đây. Kiku-chan cũng ngủ
ngon nhé”.
Kiku-chan cũng nằm ngửa, theo hình thước thợ đối với
tôi, và đôi mắt có hàng mi dài ấy cứ nháy mãi, không có vẻ ngủ tí nào.
Tôi im lặng ngắm ngọn lửa đèn sáp trên kệ sách. Ngọn
lửa trườn dài ra, thu ngắn lại, cử động như là một sinh vật. Ngắm ngọn lửa một
hồi, bất chợt tôi nghĩ đến điều gì đấy mà đâm ra sợ hãi.
_“Ðèn sáp nầy ngắn quá. Sắp hết đến nơi rồi. Có cây
đèn sáp nào dài không?”.
_“Chỉ có thế thôi đấy”.
Tôi lặng thinh. Cảm thấy muốn cầu Trời khấn Phật.
Cho tôi ngủ được trước khi cây đèn sáp cháy hết, hoặc là cơn say từ cốc rượu ấy
tiêu tán hẳn đi, chứ không thì nguy hiểm cho Kiku-chan.
Ngọn lửa chập chờn cháy, dần dần thu ngắn lại, nhưng
tôi chẳng buồn ngủ chút nào, mà cơn say từ cốc rượu ấy đã không tiêu tán đi,
lại còn đốt nóng toàn thân tôi gấp rút khiến tôi càng bạo tợn thêm lên.
Bất giác tôi thở dài.
_“Chú cởi vớ tất ra xem sao.”
_“Ðể làm gì?”.
_”Cởi ra thì ấm hơn chứ”.
Tôi nghe lời, cởi vớ tất ra.
Thế này thì hỏng rồi. Ðèn sáp mà tắt là xong chuyện.
Tôi đành chịu thua thôi.
Ngọn lửa tối dần, quằn quại phất phơ bên trái bên
phải, chợt bừng sáng lên, rồi phát ra tiếng xì xì, hấp tấp thu nhỏ lại, rồi biến mất.
Cũng đúng lúc ấy, trời sáng dần.
Căn phòng mờ mờ sáng, chứ không còn tối mịt như
trước nữa.
Tôi nhỏm dậy, chuẩn bị áo xống đi về nhà.
Dazai Osamu
Thời nhà tôi còn ở khu Mitaka của thành phố Tokyo,
bom dội xuống gần nhà hầu như mỗi ngày, cứ nghĩ tôi có chết cũng chả sao cả,
nhưng rủi bom rơi trên đầu con bé này khiến nó chết đi mà chưa được thấy biển
một lần nào thì thật là khổ tâm quá. Tôi sinh ra ngay giữa bình nguyên Tsugaru
nên thấy biển rất trễ, đến khoảng mười tuổi mới thấy được biển lần đầu tiên.
Nỗi phấn khích tràn ngập lòng tôi lần ấy mãi mãi là một trong những kỷ niệm yêu
quý nhất đời tôi. Tôi muốn thế nào cũng cho con bé này được thấy biển một lần
trong đời.
Con tôi là một bé gái năm tuổi. Cuối cùng, nhà tôi ở
Mitaka bị bom dội sập nát, nhưng người trong nhà may mắn không ai bị thương cả.
Chúng tôi chạy nạn về quê vợ tôi ở thành phố Kofu. Nhưng rồi Kofu cũng bị máy
bay địch dội bom, căn nhà chúng tôi ở cũng cháy tan cả. Mà cuộc chiến vẫn còn
kéo dài. Chẳng làm sao hơn, tôi đành dắt díu vợ con trở về nơi tôi đã sinh ra.
Ðó là chốn cuối cùng để chết. Chúng tôi lên đường từ Kofu hướng về quê tôi ở
Tsugaru. Mất ba ngày đêm mới lê lết được đến vùng Higashi-Noshiro của huyện
Akita, từ đó đổi tàu sang tuyến Gono, đã an tâm được phần nào.
_“Biển đâu nhỉ? Phía nào thì thấy biển, hả ông?”
Tôi hỏi người soát vé. Tuyến xe lửa nầy chạy sát bờ
biển.
Hoá ra chúng tôi ngồi phía trông thấy biển.
_“Sắp thấy biển đấy nhé. Ngay đây thôi. Sắp thấy
biển của anh chàng Urashimataro đấy”.
Chỉ có mình tôi nôn nao phấn khích như thế.
_“Ðấy! biển đấy! Xem kìa! thấy biển rồi. Ồ, biển
đấy. Biển lớn thế đấy, thấy chưa! Ðấy, biển đấy!”
Thế là cuối cùng, tôi đã có thể cho con tôi nhìn
thấy biển được rồi.
_“Mẹ ơi, sông đấy chứ nhỉ, mẹ nhỉ?”. Con bé thản
nhiên.
_“Sông gì?”. Tôi thất vọng.
_“À, sông đấy con”. Vợ tôi đáp, nửa còn ngái ngủ.
_“Có phải sông đâu! Biển đấy chứ! Nói gì lạ thế!
Ngược ngạo quá đi mất! Thế mà bảo là sông! Sao mà tai quái thế được chứ!”.
Lòng bực bội chán ngán, tôi lặng ngắm biển trong
hoàng hôn, một mình.
Mùa hè
năm ngoái, sau mười năm xa cách tôi đã trở về thăm lại cố hương. Sau đó tôi tóm
tắt những sự việc đã xảy ra vào một truyện ngắn dài bốn mươi mốt trang, đặt tựa
đề “Về, đi rồi lại đến” (Kikyorai) xong gửi đến ban biên tập của một tam nguyệt
san. Câu chuyện dưới đây xảy ra ngay sau đó. Hai người tôi thường gặp, bác Kita
và bác Nakabatake, cùng đến gặp tôi ở một căn nhà nhỏ hẹp, phố Mitaka. Họ báo
cho tôi biết rằng ở quê nhà mẹ tôi đang đau nặng. Trong thâm tâm, tôi đã
dự đoán rằng thế nào mình sẽ phải nghe tin này trong vòng năm hoặc sáu năm tới,
nhưng nay không ngờ nó xảy ra sớm như vậy. Mùa hè năm ngoái, sau gần mười năm
và được bác Kita dẫn đi, tôi đã về quê thăm lại căn nhà nơi tôi sinh ra và lớn
lên. Khi đó người anh cả vắng mặt nhưng tôi được gặp tất cả mọi người, người
anh thứ tên Eiji, người chị dâu, các đứa cháu trai và gái, bà ngoại và mẹ tôi.
Mẹ tôi sáu mươi chín tuổi, rất suy yếu vì tuổi già, đi đứng không vững, nhưng
tuyệt nhiên không có vẻ gì là mang bệnh. Tôi đinh ninh rằng mẹ tôi sẽ được sống
thêm năm, hoặc sáu năm và mơ ước có thể được mười năm. Tôi dự định sẽ viết rất
chính xác về lần gặp gỡ đó trong tiểu thuyết mang tựa đề “Về, đi rồi lại
đến”, nhưng vì những tình huống đặc biệt, tôi chỉ có thể ở quê chừng ba bốn
tiếng đồng hồ mà thôi. Ở khúc cuối câu chuyện, tôi muốn nhìn thêm, và thêm nữa