
ấy để trị thương cho mẹ tôi. Rồi chúng mặc cho bà một tấm áo dài lụa thô sạch sẽ và tìm trong đống của cải cướp được một ít vải nhét vào giữa hai chân bà. Nhưng chúng đâu có lòng dạ tử tế gì cho cam.
"Ta đã nghĩ là chúng nhớ tới mẹ, chị em gái, vợ và con gái chúng. Nhưng không, chúng đang nghĩ về ta như một phần thưởng." Những chiếc khóa bên trong y phục mẹ kêu lách cách khi mẹ lo lắng mó vào chúng. "Chúng bàn cãi xem ai trong số chúng sẽ sở hữu ta. Một tên muốn bán ta vào lầu xanh. Một tên muốn giữ ta làm nô tỳ. Tên cuối cùng muốn ta làm thiếp. ‘Cô ta không tệ đâu,’ tên muốn bán ta bảo. ‘Tao sẽ trả hai mươi lạng bạc nếu mày để tao giữ cô ta.’ ‘Ta sẽ không để cô ta đi nếu ít hơn ba mươi lạng,’ tên muốn ta làm nô tỳ quát tháo. ‘Cô ta trông như sinh ra để ca hát nhảy múa chứ không phải để dệt cửi quay tơ,’ tên đầu tiên lý sự. Và sự việc cứ thế tiếp diễn. Ta mới chỉ mười chín tuổi và sau mọi chuyện đã xảy ra và mọi chuyện sẽ còn xảy ra thì đây là khoảnh khắc u ám nhất. Việc bán ta làm cô dâu cho cả vạn người đàn ông thật khác xa những vụ buôn bán phụ nữ để làm vợ, tỳ thiếp hay người hầu bình thường khác. Bán hay đổi chác ta có khác gì buôn bán muối không? Phải, vì là phụ nữ nên ta còn chẳng giá trị bằng muối."
Sáng hôm sau, một viên tướng Mãn Châu cấp cao mặc áo đỏ với thanh trường kiếm dắt lưng đến cùng một mụ đàn bà Mãn Châu chân to, tóc thắt thành bím phía sau và cài hoa trên thái dương. Hai tên này là quân do thám của một hoàng tử Mãn Châu. Họ mang mẹ khỏi tay bọn lính và đem trở về trang viên mẹ đã bị bắt về đêm hôm trước cùng với bà nội, đám tỳ thiếp và những người phụ nữ đã bị chia lìa khỏi gia đình mình.
"Sau bốn ngày mưa gió và giết chóc," mẹ nhớ lại, "mặt trời hiện ra nung nóng tòa thành. Mùi tử thi hôi thối khiến người ta choáng váng nhưng phía trên chúng ta bầu trời mờ xanh bất tận. Ta chờ đến lượt mình bị khám xét, xung quanh ta, đám phụ nữ kêu khóc rên rỉ. Tại sao chúng ta không tự vẫn? Vì chúng ta không có dây thừng, không có dao, không có vách đá. Rồi ta được mang ra trước mụ đàn bà Mãn Châu hôm trước. Mụ xem xét tóc, cánh tay, lòng bàn tay và ngón tay ta. Mụ sờ vào ngực ta qua lớp y phục và chọc vào cái bụng sưng phồng lên. Mụ kéo váy ta lên để nhìn đôi gót sen, thứ nói lên tất cả về ta, với tư cách một người đàn bà. ‘Ta thấy tài năng của ngươi ở đâu,’ mụ nói vẻ khinh khỉnh. ‘Thôi cô xong rồi.’ Sao một người đàn bà có thể làm vậy với một người đàn bà khác? Ta lại bị dẫn đi và bỏ một mình trong phòng."
Mẹ nghĩ rằng đây có thể là cơ hội để tự vẫn nhưng bà không tìm thấy vật gì để cứa họng. Bà đang ở tầng một nên không thể gieo mình qua cửa sổ. Dây thừng thì chắc không tìm được, nhưng có áo dài. Bà ngồi xuống xé viền áo. Bà làm được mấy dải vải dài rồi buộc lại với nhau.
"Cuối cùng ta đã sẵn sàng, nhưng còn một việc ta cần làm. Ta tìm thấy một mẩu than củi bên lò sưởi, bèn nhặt lên và thử trên bức tường rồi bắt đầu viết."
Khi mẹ bắt đầu đọc những gì bà đã viết, tôi bị xuyên thấu đến tim.
"Những hàng cây lá cành trơ trụi
Ngỗng trời kêu tức tưởi phía xa xa
Giá huyết lệ ta nhuộm đỏ được mai hoa
Chẳng bao giờ ta khiến cây ra chồi..."
Tôi cùng đọc hai câu cuối cùng:
"Lòng trống trải và đời vô nghĩa rồi.
Mỗi khoảnh khắc lệ rơi ngàn hàng."
Bà nội đã bảo tôi rằng mẹ là một thi sĩ tài năng. Nhưng tôi không biết mẹ lại là nhà thơ nữ nổi tiếng nhất trong tất cả, người đã để lại bài thơ bi thảm này trên tường. Tôi nhìn mẹ băn khoăn. Bài thơ của mẹ đã mở đường tới danh tiếng bất hủ mà Hiểu Khánh, Thang Hiền Tổ và những đại thi hào khác đã đạt được. Không có gì ngạc nhiên khi cha cho phép mẹ lấy bài vị của tôi. Bà là một phụ nữ hết sức lỗi lạc và tôi lẽ ra đã có may mắn, vinh dự, được bà điểm bài vị cho. Thật quá nhiều lầm lỗi, thật quá nhiều sự hiểu lầm.
"Khi viết những câu đó đó ta không biết rằng mình sẽ sống hay sẽ có những người khác, mà hầu hết là đàn ông, sẽ tình cờ bắt gặp, chép lại, xuất bản, phân phát chúng," mẹ nói. "Ta chưa bao giờ muốn được biết đến nhờ chúng; ta chưa bao giờ muốn bị coi là háo danh. Ôi Mẫu Đơn ơi, khi nghe con ngâm bài thơ ở Liên Khai Đường, ta hầu như không thở được. Con là giọt máu bé nhỏ duy nhất của ta trong đời, đứa con duy nhất của ta, và ta nghĩ con biết, vì con và ta, là mẹ và con gái, được ràng buộc rất gần gũi. Ta nghĩ con xấu hổ vì ta."
"Con sẽ không đời nào ngâm bài thơ đó nếu con biết điều ấy. Con sẽ không đời nào làm tổn thương mẹ theo cách đó."
"Nhưng ta rất sợ, ta đã nhốt con trong buồng. Ta đã sống trong ân hận kể từ lúc đó."
Tôi không giúp được gì. Nhưng tôi trách cha và ông nội tôi về những gì xảy ra ở Dương Châu. Họ là đàn ông. Họ phải làm gì đó chứ.
"Làm thế nào mà mẹ có thể trở về với cha sau khi cứu ông ấy và sau khi ông nội dùng bà nội để cứu cả hai bọn họ?"
Trán mẹ tôi nhăn lại. "Ta không trở về với cha con; ông ấy đến tìm ta. Ông ấy là lý do cho ta sống và là cách để ta trở thành mẹ con. Ta làm xong bài thơ. Thắt sợi dây thừng tự làm qua xà nhà và buộc nó quanh cổ, nhưng rồi mụ đàn bà Mãn Châu đó đến đón ta. Mụ rất điên rồ và mạnh ta