
với Ngưu Lang dưới trần gian rồi."
"Con luôn nghĩ rằng mẹ kể câu chuyện đó vì nó lãng mạn. Con đã không hiểu."
Tiếp sau đó là một hồi lâu im lặng. Cách bà hiểu câu chuyện thật u ám và tiêu cực. Có quá nhiều điều tôi không biết về bà.
"Mẹ ơi, mẹ kể đi. Chuyện gì đã xảy ra với mẹ thế?"
Bà ngoảnh đi.
"Giờ chúng ta rất an toàn," tôi nói và khoát tay ra xung quanh. "Chúng ta ở Vọng Nguyệt Đình của nhà mình. Lũ dế đang gáy còn mặt hồ trải ra mát mẻ và yên bình trước mặt. Chẳng điều gì xấu xảy ra cho bất cứ ai trong chúng ta ở đây cả."
Nghe thế mẹ mỉm cười, rồi bà ngập ngừng bắt đầu. Bà hồi tưởng lại khi mình được gả vào Trần gia và những chuyến du ngoạn cùng mẹ chồng, chuyện viết lách và ý nghĩa của nó đối với bà, về việc sưu tập tác phẩm của các nữ thi sĩ bị lãng quên, những người đã viết trong một khoảng thời gian lâu gần bằng tuổi của đất nước. Tôi nhìn thấy và cảm thấy mọi thứ khi mẹ kể.
"Đừng bao giờ để họ nói với con rằng phụ nữ không sáng tác. Phụ nữ có làm điều đó," bà nói. Con có thể trở lại hơn hai ngàn năm trước, tới Kinh Thi và thấy nhiều bài thơ trong đó là do phụ nữ viết ra. Chúng ta có nên cho rằng họ làm những bài thơ đó chỉ bằng cách mở miệng và tuôn ra ngôn từ một cách thiếu suy xét? Dĩ nhiên là không. Đàn ông tìm kiếm danh tiếng với những gì họ viết ra, các bài diễn thuyết, chép sử, dạy bảo ta phải sống thế nào, nhưng chúng ta là những người giữ cảm xúc, những người thu nhặt các mảnh vụn còn lại của những ngày có vẻ như vô nghĩa, những người chạm tới vòng quay cuộc sống và nhớ chuyện đã xảy ra trong gia đình. Ta hỏi con, Mẫu Đơn, thế có quan trọng hơn là viết bát cồ văn cho nhà vua không?"
Bà không chờ câu trả lời. Và tôi nghĩ thậm chí bà không cần một câu trả lời.
Bà kể về những ngày trước Đại biến và chuyện xảy ra khi nó đến, và tất cả đều khớp với những gì bà nội đã kể cho tôi. Mẹ dừng lại ở đoạn họ tới vọng đình cho các thiếu nữ nhìn ra ngoài và bà thu lại tất cả vàng bạc nữ trang của những người khác.
"Chúng ta vui sướng khi ở bên ngoài," mẹ nói, "nhưng chúng ta không hiểu rằng có một khác biệt lớn giữa tự ý rời khu nhà trong của mình với bị buộc phải ra ngoài. Chúng ta được dạy bảo phải cư xử thế nào và phải làm gì: phải sinh con trai, phải hy sinh bản thân cho chồng và con trai, rằng chết còn tốt hơn là mang lại hổ thẹn cho gia đình. Ta tin tất cả những điều đó. Ta vẫn còn tin."
Mẹ dường như thanh thản hơn vì rốt cuộc cũng có thể nói điều này. Nhưng bà vẫn chưa tiết lộ điều tôi muốn biết.
"Chuyện gì đã xảy ra sau khi mẹ rời khỏi vọng đình ấy?" tôi nhẹ nhàng hỏi. Tôi cầm tay bà siết chặt. "Dù mẹ có nói hoặc làm bất cứ điều gì, con sẽ vẫn yêu mẹ. Mẹ là mẹ con. Con sẽ luôn yêu mẹ."
Mẹ chăm chú nhìn ra ngoài qua hồ nước tới khoảng hồ tan biến trong sương mù và bóng tối.
"Con chưa từng kết hôn," cuối cùng bà nói, "vì thế con không hiểu chuyện mây mưa. Nó rất tuyệt vời với cha con, ông ấy tạo ra mây và mưa rơi xuống, như thế chúng ta gắn với nhau như một linh hồn chứ không phải hai."
Tôi biết về chuyện mây mưa nhiều hơn những gì tôi kể với mẹ, nhưng tôi không hiểu cho lắm bà đang nói về cái gì.
"Điều bọn lính làm với ta không phải là mây mưa," bà nói. "Nó cục súc, vô vị, không thỏa mãn ngay cả đối với chúng. Con có biết rằng khi ấy ta đang mang bầu không? Con không thể biết. Ta chưa kể với ai trừ cha con. Ta đang ở tháng thứ năm. Đứa trẻ không lộ ra dưới lớp áo dài và váy ta mặc. Cha con và ta nghĩ chúng ta sẽ đi chuyến cuối cùng trước khi ta ở cữ. Vào đêm cuối cùng ở Dương Châu chúng ta sẽ báo cho ông nội con biết. Chuyện đó đã không bao giờ xảy ra."
"Bởi vì bọn Mãn Châu đến."
"Bọn chúng muốn phá hủy mọi thứ quý giá của ta. Khi chúng bắt cha và ông nội con, ta biết bổn phận của mình là gì."
"Bổn phận ấy ạ? Mẹ nợ gì họ chứ?" tôi hỏi và nhớ lại nỗi cay đắng của bà nội.
Bà nhìn tôi ngạc nhiên. "Ta yêu họ."
Tâm trí tôi khuấy động theo bà. Bà vểnh cằm lên một cách tự nhiên.
"Bọn lính thu lấy đồ nữ trang rồi bắt ta. Ta bị rất nhiều tên hãm hiếp nhiều lần nhưng thế vẫn chưa đủ với chúng. Chúng đánh ta bằng má gươm tới khi da ta nứt ra. Chúng đá vào bụng ta nhưng không làm xây xước mặt mày."
Khi mẹ nói, sương mù tụ trên hồ chuyển thành mưa bụi và cuối cùng trời đổ mưa to. Hẳn bà nội đang lắng nghe trên Vọng Hương Đài.
"Tưởng chừng như cả ngàn con quỷ đang dẫn ta tới chỗ chết nhưng ta đã nuốt nỗi đau khổ vào và giấu nước mắt đi. Khi ta bắt đầu chảy máu trong, bọn chúng bước lùi lại và quan sát ta bò quềnh quàng khỏi chỗ chúng vào đám cỏ. Sau đó chúng bỏ ta lại. Khi con trai ta lọt lòng, ba trong số những tên đã cưỡng đoạt ta tiến đến. Một tên cắt dây rốn rồi đem con ta đi. Một tên nâng thân thể ta đang trong cơn co bóp đẩy nhau thai ra. Và tên cuối cùng cầm tay ta lẩm bẩm bằng thứ phương ngữ mọi rợ của hắn. Tại sao chúng không giết ta luôn đi? Chúng đã giết rất nhiều rồi, thêm một người đàn bà nữa có là gì đâu?"
Tất cả những chuyện này xảy ra vào đêm cuối cùng của cuộc Đại biến, khi lũ đàn ông đột nhiên nhớ ra mình là ai. Bọn lính đốt vải bông cùng với xương người và dùng tro