
g gì xuất hiện trong đầu mình. Đó chính là ngôi nhà ấy. Tôi vẽ cánh cổng, tôi vẽ vườn hoa, tôi vẽ những chum tương và vẽ cái thềm nhà. Tôi không thể nhớ được gì ngoài ngôi nhà ấy, ngôi nhà có trước ngôi nhà này, ngôi nhà đã biến mất từ lâu lắm, ngôi nhà có gian bếp kiểu truyền
thống và khoảnh sân sau râm mát dưới bóng tán cây đại hoàng cổ thụ và
gian kho nối liền chuồng lợn. Cái cổng bằng tôn có hai cánh với lớp sơn
xanh đã bong tróc cả. Cái cổng của ngôi nhà ấy, với ô cửa nhỏ ở cánh
trái và thùng thư bên cánh phải. Chỉ có dăm ba lần cả hai cánh cổng phải mở ra cùng một lúc, nhưng ô cửa nhỏ với tay cầm bằng gỗ thì lúc nào
cũng mở hướng ra đường làng. Chúng ta không bao giờ khóa cổng. Dù chúng
ta không có nhà, trẻ con trong làng vẫn chui qua ô cửa nhỏ trên cánh
cổng màu xanh ấy vào nhà chúng ta để chơi đùa cho đến tận khi trời tối.
Trong những ngày mùa bận rộn, mỗi khi đi học về sớm mà thấy ngôi nhà
vắng tanh vì mọi người còn ở ngoài đồng thì cô con gái thứ lại leo lên
cái xe đạp dựng dưới gốc cây hồng rồi nhấn nhấn pê đan. Khi tôi về, cô
con gái thứ đang ngồi ở đầu hè sẽ lao vào lòng tôi và reo lên, “Mẹ ơi!”
Khi đứa con trai thứ hai bỏ nhà đi, tôi để phần cơm cho nó ở gần lò sưởi và lúc nào cũng để cổng mở toang cả hai cánh. Nếu ai đó đá phải làm bát cơm chuệch choạc đi, tôi đặt nó lại chỗ cũ cho ngay ngắn. Ban đêm nếu
giật mình tỉnh giấc vì tiếng gió thổi, tôi sẽ đi ra ngoài lấy mấy hòn đá nặng chèn cổng vì sợ gió thổi sập hai cánh lại. Mắt và tai tôi đã được
luyện cho quen thuộc với từng âm thanh nhỏ từ cánh cổng.
Tủ quần áo cũng đã đóng băng.
Cửa tủ thậm chí không mở được. Nhưng chắc trong tủ cũng chẳng còn thứ gì. Khi bệnh đau đầu bắt đầu nặng lên, tôi muốn đến với người đàn ông
ấy, người mà tôi đã không gặp lâu nay. Tôi nghĩ có lẽ sẽ tốt hơn nếu tôi làm như vậy. Nhưng tôi đã không đi. Dằn lòng lại, tôi ở nhà để dọn dẹp
đồ đạc. Tôi có thể cảm thấy ngày đó đang đến, cái ngày mà tôi lẫn đến độ không thể nhận ra điều gì nữa. Tôi muốn lo liệu mọi thứ thuộc về mình
trong khi đầu óc còn sáng tỏ. Tôi gom những bộ quần áo vẫn treo trong tủ mà không thể vứt đi đâu được bọc vào một tấm vải mang ra đốt ở ngoài
đồng. Những bộ quần áo mặc trong còn nguyên mác mà Hyong-chol mua cho
tôi khi nhận được tháng lương đầu tiên vẫn ở nguyên trong tủ mấy chục
năm nay. Ngay cả trong lúc đốt những thứ đó, đầu tôi cũng đau như muốn
nổ tung. Những cái có thể đốt được là tôi đốt hết. Chỉ để lại chăn gối
cho con cháu dùng khi chúng về nhà nhân dịp lễ tết. Tôi đốt cả cái chăn
bông mẹ tôi dệt cho khi tôi đi lấy chồng. Tôi lôi hết những thứ đã theo
tôi bao lâu nay ra ngắm lại một lần nữa.
Cả những thứ chưa hề dùng đến vì tôi cứ để dành, những chiếc đĩa tôi
gom góp để tặng con gái lớn khi nó lập gia đình. Thế mà giờ Chi-hon vẫn
chưa kết hôn. Nếu biết trước rằng ngay cả khi em gái nó đã lấy chồng và
có ba đứa con mà nó vẫn chưa lập gia đình thì tôi đã cho em gái nó mấy
cái đĩa ấy rồi. Tôi thật ngốc khi cứ nghĩ phải tặng mấy cái đĩa ấy cho
Chi-hon vì đó là món quà tôi dành cho nó. Tôi lưỡng lự hồi lâu, rồi cầm
mấy cái đĩa đó ra ngoài đập vỡ hết. Tôi biết. Rằng một ngày nào đó tôi
sẽ không thể nhớ được bất cứ điều gì nữa. Và trước khi ngày ấy đến, tôi
muốn lo liệu mọi thứ tôi từng dùng. Tôi không muốn bỏ chúng lại phía
sau. Mọi đáy chạn cũng đều trống rỗng. Tôi đập vỡ mọi thứ đồ dễ vỡ rồi
chôn hết xuống đất.
Ngay cả trong cái tủ đã đông cứng kia, thứ đồ mùa đông duy nhất còn
lại cũng chỉ là chiếc áo lông chồn màu đen cô con gái thứ mua cho tôi.
Khi bước sang tuổi năm lăm, tôi chẳng thiết ăn uống mà cũng không muốn
đi đâu ra ngoài. Ngày tháng trôi qua, tôi chìm sâu trong mệt mỏi khó
chịu, cảm giác giống như bị con gì đốt khắp mặt mày. Khi há miệng, tôi
thấy như có mùi khó chịu từ trong cơ thể bay ra. Tôi chẳng nói chẳng
rằng suốt mười ngày trời. Tôi cố gắng tống những suy nghĩ bi quan ra
khỏi đầu, nhưng mỗi ngày lại thêm một nỗi buồn len vào trái tim tôi. Mặc dù đang giữa mùa đông, tôi cứ liên tục ngâm tay vào nước lạnh cóng để
rửa đi rửa lại. Rồi một hôm tôi tới nhà thờ. Tôi dừng lại trong sân nhà
thờ. Tôi quỳ xuống dưới chân tượng Đức Mẹ đang ôm thi thể người con
trai. Tôi định cầu xin Đức Mẹ giúp tôi rũ bỏ sự chán nản này, tôi không
thể chịu đựng nó lâu hơn được nữa, cầu xin Đức Mẹ rủ lòng thương xót
tôi.
Nhưng tôi dừng lại, tự hỏi liệu mình còn có thể xin thêm được gì từ
một người mẹ đang ôm đứa con trai đã chết. Trong lúc xem làm thánh lễ
Misa, tôi nhìn thấy người phụ nữ ngồi trước tôi khoác trên người một
chiếc áo lông chồn đen. Bị mê hoặc bởi sự mềm mại của nó, tôi từ từ ghé
mặt vào nó lúc nào không hay. Chiếc áo lông chồn như cơn gió mùa xuân
dịu dàng ôm lấy khuôn mặt già nua của tôi. Những giọt nước mắt tôi đang
kìm nén bỗng trào ra. Người phụ nữ nọ nhẹ nhàng tránh sang bên cạnh khi
tôi cứ cố gắng tựa đầu vào chiếc áo. Lúc về nhà tôi đã gọi điện cho đứa
con gái thứ để bảo nó mua cho một chiếc áo lông chồn. Đó là lần đầu tiên tôi mở miệng trong suốt mười ngày.
“Áo lông chồ