
lẽ ra phải được đặt ở đó đâu cả.
Đột nhiên tim tôi loạn nhịp. Bước chân tôi trở nên gấp gáp hơn. Tôi
hoảng sợ hỏi người phụ nữ trong cửa hàng, “Không có ai gửi chậu bột mì ở đây cho tôi sao?” Nếu ông đã chở cái chậu đến đây thì tôi phải nhìn
thấy rồi chứ, đằng này có thấy gì đâu. Cầm cái khăn trong tay, tôi vội
vàng chạy tới chỗ người chủ cửa hàng, bà ấy đang nhìn tôi chằm chằm như
muốn hỏi, “Có việc gì thế?” Phải đến lúc đó tôi mới hiểu ra tất cả. Rằng ông đã cướp đi bữa ăn tối của những đứa con tôi. Nước mắt tôi rơi lã
chã. Tại sao tôi lại đi tin tưởng mà đưa cho ông, một người tôi chưa bao giờ gặp, cái chậu đựng thức ăn của gia đình mình? Tôi đã nghĩ gì thế?
Tại sao tôi lại làm như vậy? Đến tận bây giờ tôi vẫn còn cảm thấy nỗi sợ điếng người ấy, khi mối lo thoáng qua khi dõi theo chiếc xe đạp của ông biến mất đã trở thành sự thực. Tôi không thể quay về nhà với hai bàn
tay trắng như vậy được. Tôi phải tìm lại cái chậu bột mì bằng mọi giá.
Tôi như nghe thấy trong tai mình âm thanh khô khốc của cái ống bơ va vào thành chum buổi sáng hôm đó, khi tôi vào kho đong bột để làm bữa sáng.
Tôi không thể từ bỏ được khi biết rõ rằng chỗ bột mì trong cái chậu đó
cung cấp đủ lương thực cho mười ngày. Rời khỏi cửa hàng, tôi cắm đầu cắm cổ đi tìm ông và chiếc xe đạp của ông. Tôi cứ đi mãi đi mãi, gặp ai
cũng hỏi xem họ có nhìn thấy người nào trông giống ông không. Chẳng mấy
chốc đã có người nhận ra ông qua miêu tả của tôi. Điều đó cho thấy ông
thật là bất cẩn. Ông sống cách đấy đâu có bao xa. Ngay khi biết ông sống trong một ngôi nhà ở ngôi làng cách làng tôi năm dặm về phía thị trấn,
tôi lao như tên bắn đến đó. Bởi vì phải tới chỗ ông trước khi ông dùng
bột mì trong chậu thì may ra tôi mới có thể mang về nguyên vẹn.
Khi phát hiện ra chiếc xe đạp của ông đang dựng trước cửa một ngôi
nhà tồi tàn nằm giữa cánh đồng, dưới chân đồi phía cuối con đường chạy
thẳng vào trong từ lôi vào làng ông, tôi chạy ào vào nhà ông và hét lên, Aaaaa! Rồi tôi thấy tất cả. Người mẹ già của ông đang ngồi trên thềm
nhà cũ nát, đôi mắt bà cụp xuống, đứa con trai chừng ba tuổi đang ngồi
mút ngón tay, còn vợ ông đang trong tình trạng sinh nở khó khăn. Dù đến
để thu hồi cái chậu bột mì bị ông đánh cắp, nhưng thay vì thế tôi lại
lấy cái nồi treo trên tường trong gian bếp tối tăm chật chội xuống rồi
đổ nước vào đun. Tôi đẩy ông ra một bên, vì ông loắn xoắn bên cạnh vợ mà chẳng biết làm gì, rồi tôi nắm lấy bàn tay vợ ông, người đàn bà mà tôi
mới gặp lần đầu, và hét to, “Rặn đi! Rặn mạnh lên!” Tôi không biết phải
mất bao nhiêu thời gian mới nghe thấy tiếng khóc của đứa bé mới sinh
vang lên. Nhà ông không có lấy một cọng rong biển để nấu canh rong biển
cho vợ ông. Bà mẹ già của ông bị mù. Trông bà cứ như đang trên đường
sang thế giới khác rồi. Đỡ đứa trẻ xong, tôi đi múc bột mì trong chậu ra để nhào bột rồi nấu canh bánh bột mì, khi canh chín tôi múc ra mấy bát
rồi mang một bát vào trong phòng của người mẹ vừa mới sinh. Đã bao nhiêu thập kỷ trôi qua rồi nhỉ, kể từ khi tôi đội lại cái chậu bột mì lên đầu và đi về nhà? Người đàn ông kia có phải là đứa trẻ sinh ra hôm ấy
không? Cậu ấy đang lau tay cho ông. Rồi cậu ấy lại đặt ông nằm sấp xuống và lau lưng cho ông. Đã lâu quá rồi. Gáy ông giờ đã nhăn nheo. Cặp lông mày rậm rạp ngày nào nay đã thưa thớt và tôi không còn nhận ra khuôn
miệng của ông nữa. Lúc này, cậu con trai của ông đang hỏi thay vị bác
sĩ, “Bố ơi! Bố hãy nói tên của mình đi! Bố có biết tên của bố là gì
không?”
“Park So-nyo.”
Không phải, đấy là tên tôi chứ.
“Park So Nyo là ai? Là ai hả bố?”
Tôi cũng đang băn khoăn về chuyện đó đây. Tôi là gì với ông? Là người như thế nào với ông?
Bảy tám ngày sau, cứ nghĩ mãi về tình cảnh của ông, tôi bèn mang theo một ít rong biển đến nhà ông, nhưng chỉ có đứa trẻ sơ sinh nằm đó,
không thấy vợ ông. Ông kể rằng vợ ông sốt cao trong ba ngày liền sau khi sinh đứa bé và cuối cùng đã rời bỏ thế giới này. Chính cơn đói đã khiến bà ấy không vượt qua được kỳ sinh nở. Người mẹ mù lòa của ông vẫn ngồi
trên thềm nhà cũ nát, chẳng rõ bà cụ có biết chuyện gì đang xảy ra hay
không. Cả đứa trẻ lên ba ốm yếu kia cũng thế. Có lẽ cậu con trai bên
cạnh giường bệnh của ông là đứa bé lên ba đó chứ không phải là đứa trẻ
sơ sinh.
Không biết tôi là người như thế nào với ông nhưng ông đã là người bạn suốt cuộc đời tôi. Ai mà ngờ được chúng ta sẽ làm bạn ngần ấy năm khi
ngay trong lần đầu gặp nhau ông đã khiến tôi rất thất vọng khi lấy cắp
cái chậu đựng chỗ bột mì tôi cần để nuôi con tôi? Con cái chúng ta sẽ
chẳng hiểu được đâu. Dường như chúng có thể dễ dàng lý giải chuyện có
hàng trăm nghìn người chết trong chiến tranh hơn là hiểu được mối quan
hệ giữa ông và tôi. Dù biết vợ ông đã mất, tôi không thể cứ thế rời khỏi nhà ông được, thế nên tôi đành mang chỗ rong biển đi rửa. Tôi nhào chỗ
bột mì còn lại mà hôm trước tôi đã múc từ trong cái chậu của mình ra cho ông rồi nấu canh bánh bột mì với rong biển. Xong xuôi, tôi cho đứa trẻ
mới sinh bú. Hồi đó tôi thậm chí không đủ sữa cho đứa c