
a, thua trong nỗi ngỡ ngàng, bàng hoàng, đế
quốc Tiền Tần hùng mạnh sụp đổ chỉ trong một sớm một chiều.
Lữ
Quang dẫn quân chinh phạt Tây vực vào tháng Giêng năm 383, trận Phì Thủy diễn
ra vào đầu năm đó. Lữ Quang đánh chiếm Qarasahr (Yanqi), rồi tấn công Khâu Từ
năm 384. Thực ra kế hoạch Tây chinh từng làm dấy lên cuộc tranh luận gay gắt
trong triều đình của Phù Kiên từ trước đó. Nhiều đại thần không tán đồng việc
phân tán lực lượng quân sự cho việc chinh phạt Tây vực, vì nhà Tần đang phải
tập trung binh lực để đối phó với Đông Tấn. Nhưng sự tự tin thái quá được tích
lũy sau những thắng lợi liên tiếp, khiến Phù Kiên muốn nhanh chóng trở thành
Tần Hoàng (Tần Thủy Hoàng), Hán Vũ (Hán Vũ Đế) và ông cũng tự tin cho rằng lực
lượng còn lại dư sức đối phó với Đông Tấn. Nếu không có cuộc Tây chinh này, e
là muốn gặp đại tướng quân Lữ Quang, bạn phải tham gia trận chiến tại Phì Thủy.
Và như thế, có lẽ đã không tồn tại nhà Hậu Lương do Lữ Quang dựng lên trong
thời kỳ Thập lục quốc.
Nhưng
trận chiến có ảnh hưởng to lớn đến lịch sử Trung Quốc ấy, đối với một quốc gia
xa xôi tận miền Tây vực như Khâu Từ và bản thân Rajiva có mối liên quan gì?
- Lữ
Quang đã hay tin nhà Tần bại trận. Tình hình hiện nay vô cùng rối ren, người
Yên phục quốc, người Khương làm phản, vua Phù Kiên đã không còn đủ sức để cứu
vãn thời cuộc.
Ánh
mắt chàng rực sáng, chàng bóp mạnh tay tôi:
- Ngải
Tình, theo nàng, vì sao nước Tần đang khốn đốn và cần viện binh như vậy, Lữ
Quang lại ghìm giữ binh lính ở Khâu Từ dài ngày, không chịu quay về?
Suy
nghĩ giây lát, tôi chợt hiểu ra:
- Ông
ta muốn làm vua Tây vực?
Vào
thời Thập lục quốc, hầu hết những kẻ nắm giữ trong tay chút ít binh quyền đều
muốn cát cứ, xưng vương xưng bá. Luận về dũng mãnh, Lữ Quang không bằng Thạch
Lặc, luận về độ gian xảo, ông ta không bằng Diêu Trường, luận về mưu lược, cũng
không bằng Mộ Dung Thùy. Nếu không có trận Phì Thủy, ông ta sao dám sinh lòng
bội phản với triều đình Phù Kiên. Nhưng tình thế hiện nay đã khác, ông ta cầm
quân ở nơi xa xôi, Phù Kiên lại đang đau đầu với quân phản loạn khắp nơi, chẳng
còn hơi sức và tâm trí đâu mà nhớ tới Lữ Quang, bởi vậy, Lữ Quang nảy sinh tham
vọng xưng bá cũng là dễ hiểu. Giữa vòm trời cao rộng, ở nơi khuất bóng hoàng đế
này, ông ta có thể làm mưa làm gió mà không ai động đến.
Rajiva
gật đầu:
- Đúng
vậy! Lữ Quang có dã tâm rất lớn, những chức tước mà vua Tần phong cho ông ta:
Tán kỵ thường thị, An Tây tướng quân, Tây vực hiệu úy đều không thỏa mãn tham
vọng bành trướng và xưng bá của ông ta.
Có câu:
“Đầu gà còn hơn đuôi phượng” mà!
Tôi
chợt nhớ đến một chuyện cười có thật ở nước Nam Yên thời Thập lục quốc: Một
người có tên là Vương thủy tập hợp được mấy vạn người trên núi Thái Sơn, tự
xưng là hoàng đế Thái Bình, tôn cha mình làm Thái thượng hoàng, các anh em trai
lần lượt là Chinh Đông, Chinh Tây tướng quân và hàng trăm chức quan khác. Sau
khi bị quân đội Nam Yên đánh bại, lúc đưa ra hành quyết, có người hỏi ông ta:
“Cha và các anh em của ngươi ở đâu?” Ông ta đáp: “Thái thượng hoàng lánh nạn ở
nơi xa, các tướng Chinh Đông, Chinh Tây đã bị giết hại”. Vợ ông ta tức giận mắng:
“Xảy ra cơ sự ngày hôm nay chính là tại cái miệng tai bay vạ gió của ông đó!
Ông còn chưa chịu tỉnh ngộ hay sao?”. Ông ta đáp: “Hoàng hậu ơi, từ cổ chí kim,
có gia đình nào không suy vi, có quốc gia nào không diệt vong. Đến ngày suy vi,
trẫm cũng đành ngậm đắng nuốt cay, nhưng quyết không đổi quốc hiệu!”.
Thật
nực cười! Thực ra trong một trăm ba mươi năm lịch sử ấy, Trung Quốc không chỉ
tồn tại mười sáu nước, mười sáu nước này chỉ là những tiểu quốc có quốc hiệu
chính thức và có sự kế thừa ngôi báu. Nếu tính chính xác, thì giai đoạn lịch sử
đó phải có đến hai, ba chục quốc gia tồn tại. Vương Thủy tuy ngu muội, nhưng
ông ta đã phát biểu chính xác tham vọng của các tiểu bá thời bấy giờ. Không ai
khi sinh ra đã là một bậc đế vương! Vả lại, gia đình nào rồi cũng đến lúc suy
vi, quốc gia nào rồi cũng đến hồi sụp đổ, vậy thì cứ đăng cơ làm hoàng đế cái
đã, rồi tính sau. Lữ Quang nắm trong tay cả một đội quân, lẽ nào ông ta không
có tham vọng bá vương đó.
Nhưng
điều này có liên quan gì đến việc giam giữ Rajiva?
Thấy
tôi vẫn đầy vẻ thắc mắc, Rajiva tiếp tục giải thích:
- Lữ
Quang vốn là người nơi khác đến, quân đội của ông ta cũng chỉ có bảy vạn quân.
Ông ta chỉ dựng lên một vương triều bù nhìn thì sao có thể duy trì lâu dài?
Vậy
là tôi đã hiểu! Đó là mối quan hệ giữa chính quyền và tôn giáo. Lữ Quang muốn
bám rễ ở nơi đây với binh lực nhỏ bé như vậy, chẳng thể đủ sức trấn áp và cai
quản miền Tây vực rộng lớn với hàng mấy chục tiểu quốc. Thế nên, ông ta buộc
phải dựa vào sức mạnh của tôn giáo, để công nhận quyền lực chính thống của ông
ta ở Tây vực – vùng đất vốn hết sức sùng bái đạo Phật. Và Rajiva lại là đại
diện của thần quyền ở đây, Nếu Rajiva công khai công nhận tính hợp pháp của
chính quyền Lữ Quang, ông ta sẽ không chỉ có được Khâu Từ, mà còn có thể có
được sự quy thuận của mấy chục vạn