
ắc cảnh cáo từng người, chỉ giả làm thổ
phỉ, không được tiết lộ một từ nào trước mặt Bạch Sính Đình.”
“Khó nói
lắm”, Diệu Thiên thở dài buồn bã, “Có điều, dù biết thì cũng thế nào?
Nàng ta không bị tổn thương đến một sợi tóc, cũng chẳng có chứng cứ rõ
ràng, có nói ra cũng mấy ai tin? Bỏ đi, về nói với Thừa tướng, không cần hao tâm tổn sức với Bạch Sính Đình nữa. Chúng ta thất bại hết lần này
đến lần khác, có thể thấy ông Trời không tán thành cách làm này. Người
cũng đã đi rồi, hà tất phải khổ sở bức ép làm gì?”.
Người truyền tin cung kính đáp: “Những lời Công chúa dặn dò, thần đã ghi nhớ. Thần sẽ về bẩm báo đầy đủ với Thừa tướng”.
“Lui ra.”
Nhìn theo
bóng sứ giả dần khuất ngoài tấm rèm, trong xe rộng rãi vang lên tiếng
thở dài u sầu của Diệu Thiên. Xe ngựa lấp lánh làm theo sở thích của
nàng, khiến không gian trở nên lung linh huyền diệu tựa cõi mộng ảo.
Nhưng lúc này đây, Diệu Thiên chẳng còn hứng thú nào để mà thưởng thức.
Một tin xấu khác đang chờ đợi nàng.
Sau khi có
được thư của Bạch Sính Đình, nàng giao lại toàn bộ mọi việc ở thành đô
cho Quý Thường Thanh, ngay lập tức hạ lệnh bỏ qua tất cả nghi lễ rườm rà khi công chúa nhiếp chính ra ngoài, đích thân khởi hành ra biên cương.
So với tâm trạng muốn nhanh chóng kết thúc cuộc chiến phi nghĩa hao tổn
bao mạng người vô tội của Công chúa, thì tâm trạng háo hức chờ giao đấu
của hai vị tướng Sở Bắc Tiệp và Hà Hiệp có vẻ còn cấp thiết hơn.
Diệu Thiên đang trên đường, hai bên đã có mấy lần giao tranh thăm dò nhau.
Trận đọ sức
đầu tiên lấy bình nguyên Tung Dương làm chiến trường, Sở Bắc Tiệp ép Hà
Hiệp lui binh hai mươi dặm, đại quân Vân Thường tử thương hàng ngàn
người.
Địa điểm của trận đọ sức thứ hai vẫn là bình nguyên Tung Dương, nhưng trung tâm
chuyển sang Đông Trắc. Hà Hiệp không hổ là danh tướng, biết Sở Bắc Tiệp
vội vã tấn công nên không chịu giao tranh trực tiếp với quân chủ lực của Đông Lâm mà chuyển sang đối phó với cánh quân đơn lẻ bên cánh phải, dụ
đại tướng Tiêu Bính của Đông Lâm vào rừng Tung Âm. Nếu Sở Bắc Tiệp không sớm phát hiện ra, cử người cấp báo lệnh Tiêu Bính rút lui, e là cánh
quân phải của Đông Lâm đã bị tiêu diệt. Trận cháy này khiến Sở Bắc Tiệp
phải cảnh giác, đại quân Đông Lâm không còn dám tiến bừa về biên giới
Vân Thường nữa.
Diệu Thiên
ngày đêm vội vã muốn ngăn cuộc chiến, nhưng dọc đường vẫn liên tiếp nhận được tin báo thương vong. Không những binh lực hao tổn, mà cả rừng Tung Âm, nơi nhân sâm sinh trưởng của Vân Thường, nơi mưu sinh của dân chúng lân cận cũng bị trận lửa ấy thiêu rụi trầm trọng, lòng dân cần được an
ủi.
Vân Thường
không thể tiếp tục hy sinh vô nghĩa, nàng phải nhanh chóng đến đích. Sở
Bắc Tiệp đóng quân ở chân núi Biên Phong, Phò mã Hà Hiệp đóng quân ở cửa Cửu Bạch. Một khi trận chiến chính thức bắt đầu, hậu quả sẽ khôn lường.
Thư báo của Hà Hiệp và các tướng quân đều ở trong tay nàng.
Hà Hiệp chỉ
nói qua loa về tình hình chiến tranh cho có lệ, nét chữ mạnh mẽ cứng cáp tràn đầy tự tin. Hơn trăm chữ quân báo phần lớn đều là lời hỏi thăm dạt dào tình cảm gửi về cho nàng. Các tướng lĩnh thì một lòng quan tâm đến
chính sự, miêu tả sinh động nỗi thê thảm trên sa trường.
“Quân chủ
lực của Sở Bắc Tiệp đều là quân tinh nhuệ, được huấn luyện kỹ càng, hành động mau lẹ. Trận chiến bình nguyên Tung Dương, thực sự có thể nhìn ra
tinh hoa luyện binh của Đông Lâm.”
“Ánh kiếm
bay giữa không trung, tiếng kêu thảm thiết vang khắp nơi, thi hài kín
đất, diều hâu vu đầy. Những kỵ binh dũng mãnh thuộc đội cảnh vệ số ba
của Vân Thường ta gần như đã ra đi trong trận giao tranh trực tiếp với
Sở Bắc Tiệp.”
“Sở Bắc Tiệp uy dũng cái thế, không thể chống đỡ. Trừ Phò mã, gần như không một
tướng nào của ta có thể đánh với người này trên mười hiệp. Phò mã thực
sự là vị tướng dũng mãnh nhất của Vân Thường ta.”
“Kế của Phò mã hoàn toàn thích đáng, trước là đổ dầu vào rừng, sau dụ quân cánh hữu của Sở Bắc Tiệp.”
“Lửa khói ngút trời, hai ngày hai đêm không tắt. Ba mươi dặm rừng Tung Âm giờ đã thành tro tàn.”
“Nếu không có Phò mã, trận chiến này hoàn toàn vô vọng.”
“Thần dẫn
binh nhiều năm, chưa từng thấy đội quân nào chí khí cường thịnh, tướng
lĩnh mưu cao đến thế. Tuy Phò mã tài năng, nhưng nếu đại chiến xảy ra,
thần e cả hai đều thiệt hại vô khối. Khẩn cầu Công chúa ban bố vương
lệnh, lệnh Phò mã ngàn vạn lần không nên vội ứng chiến.”
“Vân Thường
có được một dũng tướng như Phò mã là do ông Trời phù hộ cho Vân Thường
ta. Nếu lần này có thể đánh bại đại quân Đông Lâm, từ nay Vân Thường sẽ
mãi mãi đứng đầu tứ quốc.”
“Khi Đông
Lâm còn Sở Bắc Tiệp, Vân Thường ta tuyệt đối không nên châm ngòi chiến
tranh. Thần liều chết dâng tấu, khẩu cầu Công chúa suy tính lại.”
Mỗi bản tấu đều là mấy trăm lời sôi sục, dù nghiêng về bên nào, nhiệt huyết của tướng sĩ Vân Thường đều đang hừng hực.
Xem hết tập tấu báo tiền tuyến đưa về, Diệu Thiên day day thái dương, vén tấm rèm che bên cửa sổ.
Vân Thường
đang chìm trong màn đêm yên tĩnh, bóng ma chiến tranh như con mãnh thú
phủ phục nơi âm u, có t