
ư đúc bằng
vàng, người bên phải là nữ, thấp đậm, mặt đầy mụn trứng cá, mép có nốt
ruồi đen, trên nốt ruồi có mấy sợi lông màu đen.
- Số 46 ra!
Nữ phạm đứng tuổi xỏ giày, lê bước ra cửa. Vừa ra ngoài, chiếc còng vàng choé đã bập vào tay chị ta.
- Đi! – Cảnh sát nam nói.
Nữ phạm đứng tuổi ngoảnh nhìn thím Tư, ánh mắt
vô hồn, nhìn mà không thấy gì. Thím Tư sợ đến nỗi ngồi chết lặng, chỉ
nghe tiếng cửa đóng “sầm” một tiếng, thoắt cái đã mất hút cả lính gác,
cả súng lắp lưỡi lê, cả cảnh sát áo trắng, cả nữ phạm áo xám. Mắt thím
cay xè, phòng giam phút chốc tối như hũ nút.
Họ đưa chị ấy đi đâu nhỉ? Thím Tư đoán già đoán non, thím nghe ngóng. Tiếng kêu của con chích choè ngoài sân vọng vào,
có cả tiếng va đập rất mạnh của sắt thép từ rất xa dội tới. Phòng giam
sáng dần lên, nhặng xanh bay sát mái, màu xanh lấp loá như sao đổi ngôi.
Nữ phạm đứng tuổi đi rồi, thím Tư cảm thấy lẻ
loi quá. Thím nhận ra thím đang ngồi trên giường số 46 thì đâm hoảng,
nhớ tới lời dặn hôm qua của nữ cảnh sát đẹp gái, không được tuỳ tiện đổi giường. Thím miết chết một con côn trùng xanh lét bò trên tay, người nó rỉ ra một thứ nước vàng vàng, có mùi hăng như tỏi, đúng là mùi tỏi. Nữ
phạm đứng tuổi bị giải đi, thím tư nhớ lại cảnh chị ta khóc, cảnh chị ta cùng thằng ái quốc của chị hái hoa dọc theo con đê. Thím lật cái chăn
của chị ta, mùi tanh xộc lên mũi. Chăn dính một thứ như phân hoặc máu
khô. Thím lấy móng tay cạo soàn soạt. Ở các nếp gấp có rất nhiều rận,
thím bắt vài con lên miệng cắn, mặt thím rúm lại, nước mắt ứa ra. Thím
đang nhớ lại cảnh bắt rận của chú Tư.
Ngoài sân nắng chan hoà. Chú Tư dựa tường, cởi
trần, áo bông trải trên đầu gối, bắt từng con rận bỏ vào cái bát vỡ có
nước. Thím động viên chồng cố bắt cho đầy bát rận, đem chiên mỡ làm thức nhắm rượu.
Chú Tư nói: “Nghèo sinh rận, giàu sinh ghẻ.”
Chú Tư bắt một con rận kềnh bỏ vào bát. Kim Cúc đùa, lấy cọng cỏ khuấy đám rận lộn tùng phèo. Một con gà
già khú đế ngoẹo đầu nhìn đàn rận trong Bát.
Kim Cúc nói: “Bố ơi, con gà định mổ rận!”
Chú Tư xuỳ con gà đi chỗ khác, nói: “Bắt mãi mới được, tưởng bở!”
Kim Cúc nói: “Bố, cho nó ăn đi! Để nó đẻ nhiều trứng.”
Chú Tư nói: “Bố đang gom đây, ông Vương thôn Đoài đặt một nghìn con.”
Kim Cúc hỏi: “Ông ấy cần rận để làm gì?”
- Chế thuốc!
- Rận mà có thể làm thuốc?
- Dưới gầm trời này, muôn vật đều có thể làm thuốc – Chú Tư nói.
- Bố bắt được bao nhiêu con rồi?
- Tám trăm bốn mươi bảy con.
- Bố để con bắt cho.
- Không được, ông Vương đã dặn kỹ, không để đàn bà bắt, dính hơi đàn bà là thuốc hết công hiệu.
Kim Cúc vội rụt tay lại.
- Làm kiếp rận cũng không dễ – Chú Tư nói –
Chưa nghe kể à? Có hai con rận, một con thành phố, một con nhà quê gặp
nhau trên đường. Rận thành phố hỏi: “Đại ca nhà quê đi đâu thế?” Rận nhà quê nói: “Ra thành phố, còn anh đi đâu?” Rận thành phố nói: “Tôi về nhà quê.” “Về có việc gì?” “Về kiếm ăn.” “Đừng về nữa, tôi ở nhà quê đói
quá, định ra thành phố kiếm ăn đây này!” Rận thành phố hỏi rận nhà quê
sao lại đến nông nỗi ấy, rận nhà quê nói: “Aùo bông rách nhà quê, một
ngày ba lần bắt, mỗi lần bắt không thấy lại dùng chày lăn hoặc ghè răng
cắn. Bọn tui đứa thì chày cán bẹp, đứa răng kẹp mà chất, tôi còn sống
đâu phải chuyện đùa!” Rận nhà quê vừa khóc vừa kể. Rận thành phố thở
dài, nói: “Tớ cứ nghĩ ở nhà quê khá hơn thành phố, ngờ đâu tệ hơn!” Rận
nhà quê hỏi: “Thành phố sống thế nào, chắc là khá hơn nhà quê?” Rận
thành phố nói: “Cứt, khá gì mà khá? Quần áo mớ ba mớ bảy toàn là ni lông với sợi tổng hợp, ba ngày hai lần giặt, một ngày năm lần thay, Nhìn
thấy thịt đã khó, nói gì đến ăn thịt uống máu! Tránh hùm gặp hạm, thoát
bàn là , lại bị nước sôi! Tớ sống sót chạy thoát về đây đâu có dễ!”
Hai con rận ôm nhau khóc một trận, nghĩ tới nghĩ lui thấy đã cùng đường, bèn ôm nhau nhảy xuống giếng tự vẫn!
Kim Cúc cười khanh khách: “Bố chỉ giỏi bịa chuyện!”
Tiếng cười của Kim Cúc vẳng bên tai thím Tư.
Thím nhíu mày cắn một con rận. Thím không chịu nổi mỗi khi nhớ tới cuộc
sống êm ái xưa kia. Thím không bắt rận nữa. Thím xuống giường, nhón chân đi ra chỗ cửa sổ. Cửa sổ rất cao, gờ cửa cao ngang trán. Thím trở lại
đứng trên giường, qua cửa sổ nhìn thấy hàng rào dây thép gai, phía ngoài là cánh đồng rau, có dưa chuột, cà bát, biển đậu. Dây biển đậu đã úa
vàng, cà đang nở hoa tím, đôi bướm màu xanh chấp chới trên ruộng rau,
lúc khuất trong giàn biển dậu, lúc bay trên đám hoa cà.
Thím Tư ngồi xuống, lại bắt rận trong chăn.
- Ông lão, dậy thôi! – Thím dùng chân khoèo chú Tư.
Lũ vẹt nhà Cao Trực Lăng ở ngõ Đông kêu lần bốn, thím Tư dùng chân khều chú Tư, gọi: “Dậy thôi ông, vẹt kêu lần bốn rồi!”
Chú Tư ngồi dậy, khoác thêm chiếc áo
chẽn, nhồi một tẩu thuốc, châm lửa, vừa hút vừa nghe lũ vẹt lải nhải như nói mê. Chú Tư nói: “Bà ra sân xem sao hộ tôi. Tôi không tin lũ vẹt,
chim cảnh đâu phải gà trống mà báo thức!”
- Người ta đều bỏ giống vẹt rất linh – Mắt thím Tư loé lên trong bóng tối – Ông đã trông thấy đàn vẹt chưa? Lông xanh
có, lông vàng có, lông đỏ có, đủ các màu,