
nữ hôm trước khi thấy tôi
quay trở lại cung đã chạy ra cửa nghênh đón, vội vã đến mức suýt chút
nữa là ngã. Khi rảnh rỗi nói chuyện phiếm, tôi mới bất giác nhận ra rằng cô bé cũng là một cung nữ trước kia của Hoàng cung Nam Sở.
“Lần đầu
tiên khi nương nương nhập cung, nô tì đã nhìn thấy người, vô cùng xinh
đẹp…” Đôi mắt của cô bé vừa to tròn vừa đen nháy, linh động, nhìn khắp
nơi, thường hay nói với bọn Ngưng Sương rằng: “Khi đó, trong cung đồn
rằng cháu gái của Đỗ thái hậu sắp nhập cung, phi tần nương nương đưa
theo mấy bọn cung nữ đi tản bộ tiện thể ngắm nghía coi sao. Lúc đó liền
nhìn thấy Ninh đại tiểu thư cùng mấy người cung nữ hầu cận đi vào, vừa
đi vừa cười nói, vừa ngắt hoa đuổi bướm. Cung nữ do Đỗ thái hậu phải tới nhắc nhở người, khi đến địa phận của cung Hy Khánh, lúc đó là tẩm cung
của Triệu hoàng hậu, người không thích người khác động vào hoa cỏ, cành
liễu của mình nhất. Thế nhưng Ninh đại tiểu thư vẫn không hề để tâm,
suốt cả dọc đường nhảy chân sáo, rung bẻ khiến cành liễu rơi la liệt
trên mặt đất, lại còn ngắt vài nhánh hoa, cài lên mái tóc, gặp mấy phi
tần nương nương, còn vui vẻ tặng hoa nữa, rồi chuẩn bị mang một đóa cho
Đỗ thái hậu”.
Ngưng Sương nghi hoặc hỏi lại: “Hả? Chiêu nghi ngày xưa thích cười nói vậy sao? Lại còn cài hoa lên tóc á?”
Tẩm Nguyệt
nghiêng đầu qua một bên lắng nghe, chốc chốc lại nhìn sang phía tôi, rồi Cửu Nhi, rõ ràng không mấy tin tưởng rằng người Cửu Nhi đang nói đến
chính là tôi.
“Đó là…” Cửu Nhi mỉm cười nói thêm: “Lúc đó Triệu hoàng hâu tức giận đùng đùng, còn
đi tới trách mắng Ninh đại tiểu thư. Ninh đại tiểu thư lắc vòng hoa trên đầu qua lại, cười hỉ hả nói Triệu hoàng hậu quá đỗi hẹp hòi, có mấy
bông hoa mà cũng so đo tính toán cùng em dâu. Câu nói đó khiến cho Hoàng hậu không biết nên khóc hay cười, vừa hay gặp Hoàng thượng… Ừm, chính
là Nam Hôn hầu hiện nay, đại tiểu thư còn đi mách tội, Nam Hôn hầu vừa
gặp đã khen Ninh đại tiểu thư ngây thơ, đang yêu, không cho phép Triệu
hoàng hậu ăn hiếp…”
Ngây thơ, đáng yêu…
Tôi lười biếng nằm trên giường, sầu muộn.
Không khí
trong phòng đột nhiên tĩnh lặng, ngay bản thân tôi cũng chẳng thể nào
hình dung được hình ảnh cô gái ngây thơ, đáng yêu đó có liên quan gì đến bộ dạng sầu muộn, héo hon, sống chẳng khác nào cái xác không hồn hiện
nay của mình.
Cửu Nhi bật
cười hỉ hả một lúc, sau khi nhận ra những người khác đều im lặng không
cười, mới từ từ ngậm miệng lại, đôi mắt to tròn kia vẫn linh động chuyển tới chuyển lui, một lúc lâu sau mới miễn cưỡng nhoẻn miệng cười nói:
“Làm… làm sao thế? Nô tì đã nói sai điều gì sao?”
Tôi mỉm cười nói: “Không nói sai gì cả. Lúc đó ta vẫn còn là đứa trẻ con, không biết trời cao đất dày là gì?”
Cửu Nhi liền đưa ngón tay lên tính: “Cũng không phải là thời gian quá lâu, hơn ba
năm một chút thôi mà. Mùa xuân năm đó, chiêu nghi nhập cung, nô tì nhớ
hoa hải đường đang nở rộ, Hoàng thượng… à, Nam Hôn hầu lúc bấy giờ còn
vẽ một bức tranh tặng cho Ninh đại tiểu thư, chính là bức chiêu nghi
đứng cạnh bên hoa hải đường”.
Xa với như giấc mộng kiếp trước, thế nhưng tôi vẫn còn nhớ rất rõ.
“Chỉ sợ đêm
tàn hoa ngủ mất. Khêu ngọn nến cao ngắm vẻ hồng”[2'>. Hai câu thơ đề trên bức họa này đã khiến cho Trang Bích Lam cau chặt đôi mày, đồng thời
khuyên tôi tuyệt đối không được rời khỏi cung Đức Thọ nửa bước, tránh
tiếp xúc với người anh họ chí cao vô thượng của Nam Sở lúc đó.
[2'>.
Dịch ý tứ hai câu cuối trong bài thơ Hải đường của Tô Đông Pha: “Chỉ
khủng dạ thâm hoa thụy khứ, cố thiêu cao chúc chiếu hồng trang”. (Chỉ sợ đêm khuya hoa ngủ mất, cố đốt ngọn nến cao để chiếu rọi dung nhan trang điểm diễm lệ”.
Quả nhiên, khi hải đường tàn mất, cũng là lúc mùa xuân trôi qua.
Tuy từng ca
hát, đàn múa thưởng ngoạn ánh trăng trong lầu son, nhưng vẫn chẳng thể
che giấu được sự nhạt úa tàn phai của hoa sau cơn bão tố.
Tất cả mọi thứ đều không thể nào cứu vãn được nữa.
Xoạt, xoạt, xoạt…
Tiếng động
nhỏ mà có nhịp điệu, chậm rãi vang lên trong phòng, chính là tiếng động
Vô Song đang mài một miếng ngọc nào đó, nghe nói có tác dụng chữa lành
vết sẹo hiệu quả.
Thế nhưng thần sắc của Vô Song không mấy chú ý vào tấm ngọc mài trên tay.
Rõ ràng cô bé đang nghi hoặc nhìn về phía tôi, tỏ ra thương cảm, xót xa.
Còn tôi chỉ bình thản mỉm cười.
Đường Thiên Tiêu ở lại cung Hy Khánh hai hôm, đến ngày thứ ba mới di giá đến cung Di Thanh.
Lúc này tôi
đã có thể xuống giường đi lại, đang mặc trên người bộ trang phục màu lam nhạt, khoác ngoài một chiếc áo chắn gió màu lá sen, thất thần ngồi bên
cạnh cửa sổ.
Ngài bước
tới, cũng đưa mắt nhìn ra ngoài, tùy tiện đặt tay lên đôi vai tôi, thân
tình vỗ lên đó vài lần, cười nói: “Thật sự ta không nên để cho nàng dọn
đến đây sống. Ít nhất là ở Tĩnh Nghi viện vẫn còn hoa lê, hoa đào để
ngắm, chứ cung điện này, ngắm đi ngắm lại chỉ có đúng một cây đại thụ,
cho dù cành lá um tùm, cũng chẳng thể nào diễm lệ như các cây hoa khác
được”.
Tôi cũng mỉm cười, nhìn ngài rồi đáp: “Xem ra, Hoàng thượng đã tĩnh dưỡng rất ổn, như vậy thần