
ách Dã Lang
Câu năm mươi dặm về phía bắc, hiện đang đóng quân ở đó.
Thương Dịch Chi cùng Từ Tĩnh nhìn
nhau, trong mắt đều ánh lên một tia kích động cùng hưng phấn, còn có
chút khẩn trương không dễ phát hiện. Từ Tĩnh nói: “Trời cũng giúp ta,
chúng ta vẫn còn thời gian một đêm để cho đại quân nghĩ ngơi hồi phục.
Trần Khởi đã ở tiểu trạm, sáng mai nhổ trại tất nhiên là kỵ binh đi
trước, đồ quân nhu áp tải phía sau. Khi đã lọt vào Dã Lang Câu, kỵ binh
của Trần Khởi liền khó có thể dụng võ. Chỉ cần đánh úp kỵ binh, thì bộ
binh phía sau không chừng cũng sẽ loạn. Chúng ta thiếu kỵ binh, cũng
không thể chỉ trông vào lợi thế địa hình, cho nên chỉ có thể dùng bộ
binh đến đánh!”
Thương Dịch Chi khẽ gật đầu đồng ý,
không nói nhiều lời, liền dựa theo kế hoạch mà bố trí binh lực. Hơn hai
vạn quân Nam Hạ mai phục tại Dã Lang Câu thành một trận địa kiên cường,
đồng thời bố trí năm ngàn cung thủ ở hai cánh. Hai cánh này nghiêng về
phía trước, kéo dài đến hai sườn núi, nếu kỵ binh Bắc Mạc lọt vào vị trí trung tâm, chẳng những không thể bỏ chạy, mà còn bị cung thủ hai mặt
vây chặt, phơi mình dưới mưa tên. Để bảo vệ cung thủ, Thương Dịch Chi
lại rút ra hai ngàn trong tổng số ba ngàn kỵ binh dàn hàng ở phía sau,
mỗi bên một ngàn kỵ binh. Bên ngoài cánh phải, nghe theo kế của Đường
Thiệu Nghĩa, lại bố trí thêm một ngàn kỵ binh làm lực lượng đột kích
cùng truy kích, hạ lệnh cho bọn họ chỉ cần bộ binh Bắc Mạc bắt đầu có
động tĩnh liền lập tức vọt tới phía sau bọn họ giáp công(2).
Các tướng đều lĩnh mệnh mà đi. Quân
Nam Hạ sau một đêm nghỉ ngơi hồi phục liền bố trí những quân chủng khác
nhau vào từng trận địa phù hợp. Chính giữa là trận địa của chủ lực bộ
binh do quân Thanh Châu của Thương Dịch Chi tạo thành, mỗi binh sĩ đều
cầm trường mâu trong tay, hàng ngũ nghiêm chỉnh canh giữ ở nơi đó.
“Dùng trận địa trường mâu đối phó với kỵ binh?” A Mạch nhìn trận địa bộ binh phía dưới, hỏi Đường Thiệu Nghĩa.
Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa cũng không biểu lộ điều gì, lại khiến cho A Mạch cảm thấy một không khí xa lạ, xơ
xác, tiêu điều tràn ra, rồi anh ta bình tĩnh trả lời: “Người đời nói
thiết kỵ của thát tử Bắc Mạc là thiên hạ vô địch, lại không biết rằng
Tĩnh quốc công của ta từ hai mươi năm trước đã từng nói, chỉ cần dùng
chiến lược, chiến thuật hay thủ đoạn nào đó khiến cho kỵ binh khi tấn
công chính diện vào bộ binh của ta sẽ vấp phải một trận địa được bố trí
ngay ngắn, kín kẽ thì bộ binh có thể có được ưu thế phòng ngự rất lớn.”
A Mạch không nói gì, vốn chỉ nghĩ là
quân Nam Hạ sẽ ở trong này phục kích đại quân Bắc Mạc, rồi sau đó mặt
đối mặt đánh một trận, thì ra hiện giờ quân Nam Hạ lại sử dụng phương
pháp khiến cho kỵ binh Bắc Mạc chủ động tấn công mình rồi bộ binh bày
trận gây trở ngại cho kỵ binh Bắc Mạc. Nàng không khỏi nghĩ đến phụ thân trong lúc vô tình từng nói rằng bộ binh và kỵ binh đều có ưu khuyết
điểm riêng, thật ra so với những lời Đường Thiệu Nghĩa vừa nói cũng có
chút đạo lý tương tự.
Đường Thiệu Nghĩa theo thói quen định đưa tay vuốt bội kiếm bên người, đột nhiên hỏi A Mạch: “Vì sao không
đeo thanh kiếm ta đưa, ta chính là thiệt tình muốn tặng cho ngươi, tuy
nói rằng kiếm là vũ khí được quân đội trang bị, nhưng cũng là vật phẩm
của quan quân, có thể tặng cho người khác được.”
A Mạch cười rạng rỡ, vỗ vỗ loan đao
bên sườn nói: “Đại ca, ta mới học được chút đao pháp, tuy rằng chỉ là
múa đao đùa giỡn thôi nhưng thật ra cũng thấy thuận tay. Ta biết đại ca
là thành tâm tặng cho ta bội kiếm, nhưng ta mang theo chỉ sợ sẽ làm hỏng mất một thanh kiếm tốt. Nếu ở trong tay đại ca, có khi nó còn được tắm
chút máu của thát tử.”
Đường Thiệu Nghĩa không phải một bà
mẹ già, nghe A Mạch nói như vậy, liền thân thiết hỏi: “Đao pháp của
ngươi đã thuần thục chưa?”
A Mạch cười nói: “Cũng khá, Trương
Sinh là một thầy giáo giỏi, anh ta dạy rất cẩn thận, hơn nữa ta lại
thông minh, đương nhiên học rất nhanh.”
Thấy A Mạch khoe khoang, trên mặt
Đường Thiệu Nghĩa cũng lộ ra ý cười, ánh mắt đảo qua A Mạch hiện lên một chút ôn nhu, lại quay đầu lẳng lặng nhìn dưới núi, đột nhiên nhẹ giọng
hỏi: “A Mạch, ngươi có sợ không?”
“Sợ?” A Mạch sửng sốt, lập tức vừa cười, vừa lắc lắc đầu, nói: “Không, ta không sợ.”
Đường Thiệu Nghĩa quay người nhìn A
Mạch, môi khẽ cười, kiên nghị nói: “A Mạch, ta phải đi rồi, đại khái đợi không đến giữa trưa thát tử sẽ đến đây, ngươi mau quay trở lại bên cạnh tướng quân đi.”
A Mạch gật đầu không nói gì.
Đường Thiệu Nghĩa cụp mắt, lại thấp giọng nói: “Ngươi bảo trọng.” Nói xong liền lên ngựa phi xuống dưới núi.
Trong lòng A Mạch có chút rầu rĩ, tựa hồ mỗi một lần cùng anh ta tách ra, anh ta đều xoay người rời đi, sau
đó cũng sẽ không quay đầu lại. A Mạch đột nhiên cười khổ, dùng sức lắc
lắc đầu, đem chút thương cảm không nên có bức ra ngoài.
Sáng sớm ngày mùng 4 tháng 11, đại
quân Bắc Mạc nhổ trại. Quả nhiên là kỵ binh đi trước, bộ binh đi sau,
cuối cùng là đội quân vận tải lương thảo và đồ quân nhu. Khi còn cách
quân Nam Hạ khoảng hai mươi dặm, thám báo Bắc Mạ