
nghĩa giống như lời A Mạch nói, nhưng Đường Thiệu Nghĩa thật ra luôn chiếu cố đến A Mạch, trong lòng A Mạch cũng rất cảm kích anh ta,
thực lòng gọi anh ta là đại ca.
Đường Thiệu Nghĩa quay đầu liếc mắt
nhìn A Mạch một cái, vẻ mặt nghiêm túc nói: “A Mạch, giờ là lúc nào? Sau khi truyền tin xong thì nên nhanh chóng trở về phục mệnh, sao ngươi lại có thể đứng lại cùng người khác ôn chuyện? Huống chi hiện nay liên quân Thanh, Dự liên hợp lại, nếu để người khác thấy được, họ sẽ không nói
ngươi cuồng vọng, mà chỉ nói tướng quân quản lý thuộc hạ không nghiêm mà thôi.”
A Mạch cũng nhận thức được vừa rồi mình quá mức tùy ý, chột dạ nói: “Đại ca, A Mạch sai rồi, về sau ta sẽ không dám nữa.”
Đường Thiệu Nghĩa thấy bộ dạng cúi
đầu của A Mạch, cũng không trách cứ thêm nữa, chỉ quay đầu nhìn dãy núi Ô Lan mà trầm mặc không nói.
A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa không
hề giáo huấn nàng, liền thuận miệng hướng anh ta nói: “Đại ca, lần này
hành quân đúng là nhanh hơn trước rất nhiều! Lần trước ta theo tướng
quân đến Dự Châu, chỉ vài trăm dặm đường, vậy mà đại quân phải phải mất
nửa tháng sau mới đến Dự Châu.”
Đường Thiệu Nghĩa nhíu mày, quay đầu
kinh ngạc nhìn A Mạch chằm chằm, đến khi A Mạch cảm thấy mất tự nhiên
mới nói: “A Mạch, hôm đó nghe thấy ngươi ở trước mặt bao chư tướng bày
ra mưu kế, đại ca thập phần bội phục, thấy ngươi chính là kỳ tài quân
sự, không nghĩ hôm nay ngươi lại hỏi một câu như của một người bình
thường như vậy.”
Sắc mặt A Mạch trở nên quẫn bách
nhưng ngay lập tức lại khôi phục lại vẻ thản nhiên, hào phóng nói: “Đại
ca, A Mạch chỉ biết chút lý luận suông mà thôi, việc quân lớn nhỏ đều là không hiểu, không biết, mưu kế hôm đó cũng là do Từ tiên sinh vì muốn
cứu mạng A Mạch nên đã âm thầm đưa tới trước, chứ cũng không phải do A
Mạch nghĩ ra.”
Đường Thiệu Nghĩa nghe nàng nói như
vậy, nghi ngờ trong lòng mới có chút tiêu tan, liền đưa nàng rời xa khỏi hàng ngũ một chút rồi mới thấp giọng nói: “Ngươi cũng biết lần xuất
binh này, quân sĩ của chúng ta chỉ mang theo lương thực cho mười ngày
phải không?”
A Mạch gật đầu, đồ ăn của nàng đang
cõng trên lưng, nghe nói là do Tĩnh quốc công phát minh, khi nấu chín
vừa có thể ăn vừa có thể uống. A Mạch hỏi: “Đại ca, chẳng lẽ mang theo
lương thảo cùng những đồ doanh trướng linh tinh thì tốc độ hành quân lại có thể giảm đi nhiều như vậy sao?”
Đường Thiệu Nghĩa gật gật đầu.
A Mạch trong lòng có chút nghi hoặc,
nhịn không được lại hỏi: “Tướng quân nói Thạch tướng quân phía sau phải
lập tức phái người vận lương cho chúng ta, nhưng tốc độ hành quân của
chúng ta nhanh như vậy, đội quân vận tải lương thực có thể đuổi kịp
chúng ta sao?”
Đường Thiệu Nghĩa nhìn A Mạch không
nói. Trong lòng A Mạch vừa động, đột nhiên hiểu ra, nhịn không được
hoảng sợ hỏi: “Chẳng lẽ nói vậy nhưng thực ra là không có quân vận
chuyển lương thực cho đại quân? Với chút lượng thực mà chúng ta mang
theo, khi trở về phải làm sao bây giờ?”
Trong mắt Đường Thiệu Nghĩa hiện lên
một tia kiên nghị cùng ngoan cường, nhẹ giọng nói: “Trong thành Dự Châu
chỉ có mấy ngàn người già yếu, Thạch tướng quân lấy ai vận chuyển lương
thảo cho chúng ta? Nếu chúng ta thắng, tự khắc sẽ có lương thảo, nếu
thua, đã không thể trở về được thì lương thảo có hay không cũng đâu có
ích lợi gì?”
A Mạch nhất thời kinh hãi nói không
ra lời, nàng nhìn Thương Dịch Chi ở cách đó không xa, mới hiểu được anh
ta đúng là thật nhẫn tâm, dùng không đến bốn vạn bộ binh đi phục kích
đại quân Bắc Mạc, ngay cả lương thảo để quay về cũng không chuẩn bị.
Nhìn không ra anh ta lại có thể là một công tử phong lưu, đúng là trong
suy nghĩ đã quyết “không thành công cũng thành nhân”.
Mùa thu năm Thịnh Nguyên thứ hai, Thành tổ đem bốn vạn quân đi đánh Bắc Mạc, cách thành Dự Châu hơn sáu
trăm dặm về phía Bắc, cùng Trần Khởi tiếp chiến, tiêu diệt hơn hai vạn
binh lực địch, Trần Khởi đại bại, bỏ chạy khỏi Tĩnh Dương.
– xuất từ [ hạ sử - thành bản gốc kỉ '> –
Dã Lang Câu chính là thượng nguồn của sông Bình Nguyên, mặc dù gọi là câu(1), thực ra chỉ là một cái khe nhỏ
hẹp. Phía tây uốn lượn quanh đỉnh núi cao nhất trong dãy Ô Lan, đến phía đông thì bắt đầu dội xuống thành thác nước Khâu Lăng. Đêm đó, kỵ binh
Bắc Mạc của Thường Ngọc Thanh chính là từ trên triền núi phía tây lao
xuống, sát nhập vào quân doanh của viện quân Tĩnh Dương vốn đang ngủ
say, giết sạch mười lăm vạn đại quân, sau đó ở sườn dốc phía đông đào
mấy cái hố rất lớn chôn vùi tất cả. Có lẽ là chôn lấp sơ sài, nên từ đó
về sau, mỗi khi đến nửa đêm, trên sườn dốc này liền xuất hiện những đốm
lửa xanh lập lòe, như là một đám hồn phách của những người chết oan. Gần đó, vốn cũng có mấy hộ nông gia sinh sống, nhưng từ đó về sau, tất cả
cũng đều bỏ đi hết, khiến Dã Lang Câu lại càng thêm hoang vắng.
Liên quân Thanh, Dự đến Dã Lang Câu
vào ngày mùng 3 tháng 11, quả nhiên đã đến trước đại quân Bắc Mạc. Thám
tử hồi báo, đại tướng quân Bắc Mạc Trần Khởi dẫn hai vạn kỵ binh và năm
vạn bộ binh, đi từ Tĩnh Dương, Nam Hạ, đã đến một trấn nhỏ c