
ó ân, có oán với thí sinh hoặc gia chủ của thí sinh,và đơn thuần xuất phát từ ân oán cá nhân mà đến trường thi để gây sónggió, tạo thêm khó khăn cho sĩ tử. Nhưng sự xuất hiện của loại hồn ma này dường như lại hợp ý trời, được lòng thiên tử, vì vậy, rất có thể thựctế nhân vật chính lại là chính các vị quỷ thần. Tuy bọn họ một bên làân, một bên là oán, vị trí tương phản, mâu thuẫn, đối lập nhau, nhưngkhi dẫn họ vào trường thi thì không phân biệt khu vực, tất cả đều dùngcờ màu đen cả. Các quân sĩ sợ các vị quỷ thần không tìm thấy cổng lớncủa trường thi, một mặt vẫy cờ ở chốn u minh, một mặt còn phải kêu gàothảm thiết: “Ai có ân báo ân, có oán báo oán…” Trong chốc lát, từ bốnphía bỗng ào ào kéo đến các đội quân quỷ thần, ai nấy đều cầm trên taylá cờ của mình với màu sắc khác nhau, hăm hăm hở hở tiến vào cổng chính. Và ngay sau đó, các vị quân lính sẽ đem ba loại cờ biểu cắm vào bốn góc của trường thi. Dấu hiệu đó ám chỉ các vị thần linh hay ma quỷ đều đãđến đông đủ và đứng vào đúng vị trí của mình rồi. Đến ngày hôm sau, cácthí sinh mới điểm danh vào phòng thi, còn hiện tại thì có một hoặc vàivị ngồi sẵn trong phòng thi để chờ đợi.
Câu chuyện này có lẽ đãlàm cho người đọc, người nghe cảm thấy rất hoang đường và có phần rợntóc gáy, nhưng đây không phải chuyện tự nhiên mà có. Từ hàng nghìn nămnay, các câu chuyện ly kỳ cổ quái xảy ra trong và ngoài trường thi không phải là hiếm. Nếu như có người muốn viết về lịch sử các câu chuyện maquỷ ở trường thi của Trung Quốc, chẳng hạn như “có ma” hay “ma trêu” thì đều giống nhau ở chỗ là không dễ mà có thể bỏ qua tình tiết này được.
1
Việc thi cử diễn ra sớm nhất có thể nói là vào thời nhà Tùy, nhưng từ thờinhà Tùy đến nhà Đường rồi đến nhà Tống, những câu chuyện ma quỷ ở trường thi không thể so bì với thời Minh - Thanh. Tuy nhiên, có một chi tiếtkhác biệt là ma quỷ ở đây không phải phân thành ba loại như trên mà cókhoảng bốn loại.
Một loại có thể nói đến là “ma giúp đỡ”, dùngthân phận đặc biệt của mình để làm một số việc giúp đỡ các thí sinh màngười thường không thể làm được. Vi Huyến, người nhà Đường trong Lưu tân khách gia thoại lục[2'> dẫn ra một câu chuyện như sau: “Quách Thừa Hỗ đi ứng thi, khi nộp bài thi đã nộp nhầm cuốn binh thư mà mình yêu thíchlên và để bài thi của mình trong một cái giỏ ở phòng thi. Khi anh tađúng ở cổng trường thi đi đi lại lại, một lão sứ đứng bên cạnh hỏi rõ sự tình, rồi nói có thể giúp anh ta, nhưng phải trả tiền thù lao là bavạn. Ngày hôm đó, mọi việc được giải quyết êm đẹp. Khi Quách Thừa Hỗ đem tiền đến nhà lão sứ, lúc này mới phát hiện ra chủ nhân của ngôi nhànghèo khổ đó đã chết được ba ngày, chính vì khòng cò tiền nên chưa thểchôn cất được.” Nhũng câu chuyện như thế về sau vẫn còn tồn tại nhưngtình tiết thì ngày càng ly kỳ hơn. Như ở thời Nam Tống trong Di kiênbính chí của Hồng Mai, tập bảy, Tề thập cửu lang có kể lại một câuchuyện không đơn giản chỉ là chuyện đổi bài thi. Thí sinh Lỗ mỗ sau khira khỏi trường thi mới nhớ ra lúc làm thơ đã quên không gieo vần vận,thế là có một tiểu sứ lấy trộm bài thi ra cho anh ta, sau khi chỉnh sửaxong liền đem về để ở chỗ cũ. Tiểu sứ này nhiều năm trước chết ở trườngthi, vì nghĩ đến gia cảnh nghèo khó của mình nên đã ngấm ngầm giở trò ma mãnh để giúp đỡ gia đình. Mà đã có thù lao thì đó lại là việc làm ănbuôn bán rồi, về lâu về dài có thể sẽ trở thành một nghề làm ăn theo mùa vận. Nhưng hồn ma mới chết mà có thể dùng “phép vận chuyện”, có thể vận khí di chuyển trong không trung như vậy thì quả thực cũng rất hiếm gặphơn nữa đến cả bài thi cũng có thể ăn cắp ra ngoài thì còn chuyện gì làkhông làm được nữa đây.
[2'> Nghĩa là: ghi lại câu chuyện khách đến nhà họ Lưu.
Loại ma quỷ thứ hai cũng tương tự như “ma giúp đỡ” nhưng tính chất lại đốilập hoàn toàn. Việc thường làm nhất của loại ma quỷ này là nịnh bợ kẻ có quyền thế, không phiền thì có thể gọi là “ma bợ đỡ”. Cuốn thứ hai,Thiệu võ thí viện trong tập Di Kiên chi ất có đoạn kể lại “Mùa thu tháng Tám năm Thuần Hy thứ mười ba, Phúc Kiến thiệu võ đang thi đấu, có mộtvị Sứ có khả năng nhìn thấy ma, nhưng không nhìn rõ mà chỉ thấy có mộtvật đen từ trên không rơi xuống, dáng mạo giống như ma, mang theo “đương tam” (hơn hai mươi đồng tiền lớn), rồi để ngay ngắn ở trên bàn. Con manày đi qua các bàn của thí sinh, thi thoảng nở một nụ cười vui sướng, để một đồng tiền ở đầu án rồi đi. Khi hơn hai mươi đồng tiền được đặt hếtthì dùng trượng đánh đuổi những người không được nhận tiền, những sĩ tửvà kẻ đầy tớ đứng hầu bên cạnh hoặc bị đánh, hoặc bút rơi mà bọn họkhông hề có cảm giác gì. Rồi vị Sứ này nghĩ: “Những người được tiền thìsẽ được tiến cử, còn những kẻ bị đánh thì sẽ bị loại khỏi khoa thi. Rồiđi đến bảng niêm yết, quả nhiên đúng như dự đoán những người thi đậu đều là “người có tiền”, còn kẻ thi rớt là những người ngược lại.” Cũng cócốt truyện giống như câu chuyện vừa kể trên đây, vào thời nhà Minh, lạicó loại ma vào trường thi “cắm cờ”, người trúng cử ờ trên đầu sẽ cắm cờmàu đỏ, người bị loại cắm cờ màu trắng, tuy đã tránh việc bị lầm tưởnglà vật cản đườn