
n độn, mùi thối không thể ngửi”, trầm tích còn lại chỉ là “thịt nát xương tan”, mà trong Tửu cuồng lại cho thêm vào đó một vài tình tiết nhỏ khác: “Trong dòng nước có một vật rất sắc, đâmthẳng vào bắp chân, cử động rất khó, đau đớn vô cùng, nước đen bẩn, hôithối, tự nhiên chảy vào trong cổ họng, thật khó có thể chịu đựng được.”Đây chỉ là tùy ý chỉ ra vài điểm mà thôi, tất cả có trong tiểu thuyếtcủa Bồ Ông. Chỉ vài tiểu tiết ấy cũng đủ cho ta thấy, thành thị từ thờixa xưa cũng đã có cảnh ô nhiễm như thế này, còn khoảng cách của nó đếnsông Nại xa gần ra sao có lẽ cũng không cần thiết phải kiểm tra độ chính xác.
Tiếp đến, chúng ta cùng tìm hiểu về cầu sông Nại, tức câycầu bắc qua sông Nại. Trong Dậu dương tạp trở của Đoàn Thành Thức ngườiđời Đường, đầu cuốn thứ hai Minh kinh Triệu Nghiệp có viết về TriệuNghiệp bị bệnh nặng phải đến âm phủ.
Lúc đầu tinh thần du tản,không tập trung, đi đứng như trong mộng, có Chu Y Bình Trách dẫn đườngđến phía đông. Ra khỏi núi, đến nơi bị cắt đoạn, thấy có rất nhiềungười. Đứng đó quan sát hồi lâu, lại tiếp tục đi đến phía đông, thấy cómột cây cầu được sơn son thiếp vàng. Bước qua cây cầu là vào trongthành, đến được Tào Tư, người dân sinh sống ở đây rất đông.
Consông này chính là sông Nại và dùng vàng bạc để trang trí thành cây cầubắc ngang. Cây cầu đó tuy không có tên gọi cụ thể nhưng người xưa vẫngọi nó là cầu sông Nại. Về sau, trong bút ký của người đời Tống, cònđược gọi là “cầu U Tư”[14'>. Chỉ đến cuốn thứ ba Đàn nguyên đường tểtrong tập Di kiên chí bổ mới nói rõ hơn về “cầu sông Nại”. Đồ tể ĐườngPhúc chỉ vì giết chết một con nhện mà bị dẫn đến sông Nại chịu tội,Đường Phúc cầu xin: “Tôi tự ngẫm cả đời không giẫm đạp lên côn trùng,chỉ nhớ là đã giết mười ba con trâu, hai mươi con lợn, nếu như được thảra, xin thề sẽ cải tạo” và:
[14'> Theo Hồng Mại, cuốn thứ tư, Thái dương bộ Vương thị phụ, trong Di kiên chi mậu.
Viên lại nói: “Đây không thuộc thẩm quyền quyết định cùa ta, đi đến đầu cầusông Nại, đích thân nhà ngươi hãy nói với Phán quan về ý nguyện củamình.” Và cả hai cùng đi tới đó. Khi đến bên bờ sông, ngước nhìn lên cây cầu cao bắc ngang qua sông, một vị quan áo mũ chỉnh tề đang đứng chờ ởđó, trên tay còn cầm một cuốn sổ. Viên lại ghé vào tai người kia nói:"Đó chính là Phán quan!” Hai con chó dữ sủa vang khắp một vùng, hung dữlao ra ngăn cản không cho ai qua. Thấy vậy, người đồ tể cung kính váichào. Vị quan áo đỏ đọc trong cuốn sổ cầm trên tay, nói: “Có lẽ đã có sự nhầm lẫn ở đây, kẻ giết Hi Tử là Bành Phú, không liên can đến ngươi,tức là tuổi thọ của ngươi vẫn chưa hết, ngươi có thể quay về dương thế!”
Những tài liệu này không những xuất hiện trong các tác phẩm văn học, mà cònlà những tài liệu đầu tiên lý giải rõ ràng sông Nại chính là cánh cổngdẫn vào thế giới âm phủ. Chỉ những hồn ma và những người đáng chết mớiphải vào bên trong còn những người không đáng chết ngay lập tức phảiquay về dương thế, ngay cả khi muốn nhìn mặt Diêm Vương cũng không được(đây có thể là để khống chế những người dân xảo trá ở dương giới đến,giống như kiểu Tịch Phương Bình đến kiện âm phủ), bởi ở đó luôn có haicon ác cẩu sẵn sàng chặn lại, điều này trước và sau sẽ không nhắc lạinữa. Nhưng hai con ác cẩu này không phải là không có lai lịch, nó cónguồn gốc từ trong truyền thuyết cổ của Ấn Độ, nói về hai con khuyến bốn mắt Saladida của thần cai quản địa phủ Diêm Ma.
Trong Di kiênbính chí, cuốn mười, Hoàng pháp sư tiếu[15'> nói âm gian có một “con sông có màu xám”, giống như đời Đường có người nói về sông Nại, có thể có sự hiểu nhầm đó là sông Nại. “柰” (nại) “灰" (khôi), hai chữ gần giống nhauvề nét (địa ngục trong kinh Phật có “khôi hà ngục”[16'>, có thể do đó màhiểu nhầm, điều này cũng không thể khẳng định chắc chắn được). Trong tác phẩm ấy có nhắc đến cầu trên sông Nại, nhưng chỉ là để cho những ngườivô tội đi qua sông, ở đó hoàn toàn không có Minh sứ hay chó dữ đứngtrông, còn về người bị trọng tội, thì vẫn giống như trước đây có ghilại, phải cởi áo lội qua sông, mà trên bờ có nhiều cây cối thì phải cởiáo ra và mắc lên đó. Nhưng có cái không giống như trước đây, đó là những chiếc áo này khi mắc lên đều phải viết rõ tên của mỗi người, sau đó đặt lên xe, chuyển qua cầu, khi qua được sông thì người đó lại mặc vào.Trên người không một mảnh vải đến gặp Diêm Vương thì cũng thật mất mặt,có thể thấy quan dưới âm phủ cũng đang dần dần trở nên “nhân tínhhóa”.[17'>
[15'> Nghĩa là: lễ tế rượu của Hoàng pháp sư.
[16'> Nghĩa là: ngục ở sông Khôi.
[17'> Cây này trong Tuyên thất chí là móc dùng để cho vong hồn treo quần áo,nhưng trong Thanh tỏa cao nghĩa Lưu Phủ thời Bắc Tống, tự nhiên cho nóbiến thành một cây cao trăm thước, thân gỗ khô rộng tới sáu mươi vòng.Cây to như thế này không thể mắc quần áo, chỉ có thể làm nơi vong hồnngồi nghỉ dưới gốc cây. Chỉ là cái cây này cao trăm thước, thân gỗ rộngtới sáu mươi vòng, đây là cây ở đâu, rõ ràng đó là những tảng đá to lớncó hình dạng giống như cây mà thôi.
Tiểu thuyết và kịch nói củahai đời nhà Minh và nhà Thanh nhiều lần có nhắc đến cây cầu bắc qua dòng sông Nại,