
ồi. Trong Cựu đường thư, địa lý chí tứ có viết:
Ba trăm dặm về phía nam huyện Bắc Lưu có hai tảng đá đứng đối mặt vàonhau, ở giữa rộng đến ba mươi bước chân, tục gọi là “Quỷ môn quan”.Tướng quân Hán Phục Ba khi đánh giặc, đi đến đây là hết đường, liền lậpbài vị bằng đá, điều này có ghi trong trang tám tám, đoạn cuối. Phía nam đặc biệt nhiều bệnh chướng khí, người đi vào đó cơ hội sống sót vô cùng mong manh, ngạn ngữ có câu: “Quỷ môn quan, thập nhập cửu bất hoàn.”[8'>
[8'> Nghĩa là: Quỷ môn quan, mười người vào thì chín người không có đường quay trở lại.
Bắc Lưu nay thuộc Quảng Tây, nơi đây nổi tiếng nhất là Quỷ môn quan, nhiềuđời nay trong thơ ca đều có người nhắc đến địa danh này. Có cách gọi tên này là bởi vì địa hình nơi đây giống như một cửa ải của thiên nhiên, và điều quan trọng hơn nữa là vào Quỷ môn quan này “thập nhập cửu bấthoàn”, chướng khí bốc lên gây bệnh hại người, người mặc giáp nam chinh,triều thần bị giáng chức đưa đến nơi này đều khó mà quay về phương Bắcđược.
Ngoài ra, theo như Viên Tử Tài, Đam Nhĩ (nay là Hải Nam)cũng có một nơi như thế, bốn bề núi non trùng điệp, ở giữa có một conđường, trên vách viết ba chữ “Quỷ môn quan”, bên cạnh khắc thơ của LýĐức Dụ đời Đường, vì lúc ông ta bị giáng chức đến Nha Châu, đi qua nơiđây liền nói: “Một khi đã đi thì đi tới hàng vạn dặm, mười người đến thì chín người không về. Quê hương ở nơi đâu, muốn sống thì phải vượt quaQuỷ môn quan này.” Chữ viết rộng khoảng năm thước, nét bút khỏe khoắn.Qua nơi đây thì mây độc cỏ ác, động vật kỳ quái, thời tiết nóng lạnhthất thường, giống như đi đến thế giới của ma quỷ, chứ không phải nơicủa con người nữa.
Những nơi khác như Quỳ Châu - Tứ Xuyên, BìnhLương - Cam Túc cũng đều có địa danh là Quỷ môn quan. Ở đây hàm ý của nó là chỉ nơi nguy hiểm, chứ không có nghĩa là một đi không trở về nữa.Nhưng đến thời nhà Thanh, Quảng Tây đã phá “Vương hoa”, Bắc Lưu khôngcòn là “thập nhập cửu bất hoàn”, đồng thời vì được phát hiện là “nơichứa đầy bạc”, Bắc Lưu đã trở thành vùng đất béo bở, kiếm được nhiềutiền, bởi thế lúc này có người cho rằng, về mặt chữ đã có sự nhầm lẫn,cái gọi là “Quỷ môn quan” chính là để chỉ “Quế môn quan”. Quảng Tây được gọi tắt là Quế, cách nói này cũng có thể được xem là trường hợp ngoạilệ.
Nhưng chắc hẳn dân gian phải có quan niệm về Quỷ môn quan ởdưới âm phủ thì mới có sự so sánh với Quỷ môn quan ở trên dương thế. MàQuỷ môn quan ở dưới âm phủ cũng chỉ là một cách nói mang ý nghĩa tượngtrưng. Mãi đến sau thời Nguyên - Minh, trong kịch nói mới xuất hiện hình ảnh Quỷ môn quan và từ đó đã trở thành cách gọi tắt của dân gian đốivới âm phủ. Trong Tây du ký, hồi thứ mười đã làm rõ hơn một chút về khái niệm Quỷ môn quan, nhưng lại không giống như sự tưởng tượng của chúngta, đó là một quan ải lớn như Sơn Hải Quan, nhỏ như Nương Tử Quan, màlại là đại môn của ngôi Thành Từ.
Thái Tông Trúc và Thôi PhảnQuan, hai đồng tử đi bộ về phía trước, bỗng nhìn thấy một tòa thành,trên cổng thành có treo một tấm biển lớn, bên trên đề rõ bảy chữ: “Uminh địa phủ Quỷ môn quan.”
Bởi vì là cổng thành nên sau khi vàođó sẽ thấy người đi bộ trên đường, đi tiếp là đến trung tâm chính trịLâm La Bảo Điện của thế giới âm phủ. Nhưng đến hồi thứ mười một, khi Lưu Kim chui vào quả dưa lạ bỗng nhiên được đến thẳng Quỷ môn quan.
Quỷ sứ gác cổng hỏi: “Ngươi là ai? Sao dám đến nơi đây?” Lưu Kim đáp: “Tôiphụng sự hoàng đế Đại Đường - Đường Thái Tông mang dâng tặng loại dưaquý bao đời Diêm Vương rất thích dùng.” Quỷ sứ vui vẻ tiếp nhận. Lưu Kim đi đến Lâm La Bảo Điện, gặp được Diêm Vương.
Như vậy ta thấy,Quỷ môn quan được miêu tả cũng chỉ giống như cổng lớn của cung phủ màthôi. Có thể thấy tác giả của Tây du ký đối với những tiểu tiết này quảthực không dụng tâm sáng tạo cho lắm nên chỉ mượn hình ảnh Quỷ môn quanđể thể hiện ý đồ đã đi vào thế giới âm phủ mà thôi.
Từ Khánh Tân - gia nhân của Khang Hy biên soạn cuốn Tín chính lục, trong đó có lấy một bài Hồi dương ký của Hải Xương Trần Thục Văn, nói về việc sau khi vàothế giới âm phủ, trước tiên phải uống canh của Thi bà bà, sau đó mớiđược vào Quỷ môn quan. Nhưng cửa ải này lại giống như Nhạn môn quan của“Tứ Lang thăm mẹ”, không thể tùy tiện ra vào. Cửa lúc nào cũng đóng kín, có hơn mười con ma mặt xanh, nanh vàng, lông lá đầy mình, chân đi đất,tay cầm giáo đứng canh, phải có giấy thông hành mới được mở cửa cho vào. Nếu không có giấy thông hành thì “người có Đạo pháp thì gọi Thái Thượng Lão Quân, kẻ có Phật pháp thì gọi Tam Thế Như Lai, người hành thiện thì gọi Quan Âm cứu khổ”, chỉ cần là môn đồ của “hội đạo môn”[9'> thì có thể tùy ý ra vào.
[9'> Nghĩa là: tụ hội của các đạo.
Nếu nhưtheo ý thức của người bây giờ, “hảo tử bất như lại hoạt trước” (thà dựavào mà sống, còn hơn là chết đẹp), Quỷ môn quan không vào thì thôi. Thực tế không phải như vậy, bởi trước khi linh hồn đến Quỷ môn quan thì thểxác cũng sắp hỏng rồi, đường quay về cũng đã bị ngắt đoạn, muốn trở vềkhông phải là điều đơn giản, vì thế, ngoài việc nhập hộ khẩu vào thếgiới u minh thì chẳng còn con đường nào khác có thể đi.
Ngoài ra,