
iếng bên ngoài thành, cách thành Phong Đô chừng hai ba dặm (tức núi Bình Đô, hay còn gọi là núi BànLong). Người dân Phong Đô có cuộc sống bình thường như những người khác, nhưng thi thoảng cũng có những tin đồn ma quái, ví như câu chuyện Tẩuvô thường trong tác phẩm Nói chuyện ma của Chúc Doãn Minh, người triềuMinh:
Thường có người đang đi trên đường, trên vai đang gánh mộtgánh nặng, bỗng nhiên quẳng gánh xuống, nhảy lên vài cái rồi lăn đùng ra đất bất tỉnh nhân sự. Người đi đường và người nhà tuy thấy vậy nhưngcũng không đưa đi cứu chữa, mà chỉ ngồi bên cạnh chờ đợi. Có khi là nửangày, có khi là một ngày, cũng có khi phải qua cả một đêm người đó mớitỉnh lại. Do nhiệm vụ dành cho ma quỷ ở dưới cõi âm quá bận rộn, đội ngũ quỷ nhỏ không đủ dùng, nên chúng tới dương gian tìm mượn nguồn nhânlực, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng sẽ thả người đó trở lại dươnggian. Đối với những nhiệm vụ phải đi sai dịch nặng nhọc cũng vậy. Tất cả những hiện tượng này được gọi là “Tẩu vô thường” và ở Phong Đô thườngxuyên xảy ra những sự việc như vậy.
Đây là lời của một đồngnghiệp người Phong Đô tận miệng nói cho tác giả nghe. Cho dù người cộngsự đó không dựng chuyện thì những việc động kinh co giật ngoài đường gần như cũng chỉ là diễn trò mà thôi. Lẽ nào ngay từ triều Minh, huyệnPhong Đô đã để ý đến giá trị thương mại của cái mác “quỷ thành” rồi sao?
Cái mác “quỷ thành Phong Đô” đương nhiên không thể chỉ dựa vào “diễn trò”để quảng cáo, nhưng nếu khăng khăng gọi một phố núi xinh đẹp như vậy làDiêm phủ thì không những khiến người khác khó chấp nhận, mà hậu quả củanó cũng sẽ chẳng tốt đẹp gì. Vì thế, Diêm phủ ở núi Bình Đô phải ở dướilòng đất, cách biệt với xã hội loài người, nhưng cả hai lại tương thôngvới nhau. Đó chính là sơn động “sâu hoắm” được nhắc tới trong phần Ngựsử Phong Đô của quyển Liêu trai chí dị. Tương truyền rằng, trong động là nha phủ Diêm La nhưng chưa từng nhìn thấy những kẻ như đầu trâu mặtngựa chui vào trong đó công tác bao giờ. Như vậy, chứng cứ chỉ có thểđược lấy từ phía dương gian, tức tất cả những dụng cụ của cõi âm ti bêntrong động đều do huyện Phong Đô trên cõi dương gian cung cấp, “gôngxiềng và sự phủ bại chuyên quyền trong động phủ”. Hang động này rất nổitiếng, theo Dụ Khúc Nguyên nói, đây chính là động Ngũ Vân của Bình Đô,vốn là một địa danh gắn với tích tiên. Trong tác phẩm Chỉ văn lục của cư sĩ Dung Nột (năm Đạo Quang, đời Thanh) cũng ghi chép rất rõ về các dụng cụ hành hình của âm ti, ông nói rằng “Vào năm Khang Hy, Hà cử nhân nhận chức tri huyện huyện Phong Đô. Khi đến nhận chức, ông thấy trong quyểnNhững điều cần biết có ghi chép về các loại dụng cụ như kẹp tay, còngtay, cùm chân, gông gỗ,… Trước đông chí phải mang tất cả vào hang động,diêm phủ sẽ cử người chuyển chúng đi.
Nhưng trong Tử bất ngữ,Viên Mai lại nói đó là một chiếc giếng, “Huyện Phong Đô tỉnh Tứ Xuyên,tục truyền là nơi trao đổi giữa người và quỷ. Trong huyện có một chiếcgiếng, hằng năm, tất cả tiền giấy hóa xong đều được mang đổ vào đó, tổng khoảng ba nghìn quan tiền, vì thế còn được gọi là giếng “nộp tiền lương thực cho âm ti”. Nếu người nào tiếc của không đốt tiền thì năm đó ắtmắc ôn dịch. Hành động này có thể làm tăng độ nổi tiếng của địa phương!Ba nghìn lượng bạc phân bổ cho dân gánh vác, mua lượng tiền giấy đủ chất thành một ngọn núi, đã là núi thì có to một chút hay nhỏ một chút cũngchẳng thể nhìn ra được, vì thế, trong quá trình giao dịch tất nhiên sẽcó kẻ giở mánh, và phần hời đó tất nhiên sẽ thuộc về đám quan lại. Nhưng Chỉ văn lục lại nói đến một chiếc giếng cạn khác, chiếc giếng này nằmphía trước điện Diêm La của núi Bình Đô, “giếng sâu đến hàng chụctrượng, khi người đi đường đến đó, vị sư trong miếu đốt một sợi dây làmtừ tre trúc ném xuống để chiếu sáng nó, giếng sâu hun hút, tương truyềnlàm như vậy có thể thông tới âm phủ”. Chiếc giếng này có lẽ là “tài sảntư hữu” được các hòa thượng đào cho miếu thờ. Việc xuống giếng du lãm là điều không thể thực hiện được, nó chỉ có thể thu hút khách du lịch đếnngó qua một lát, rồi vào trong Phật đường thắp nhang hành thiện tíchđức, như vậy thôi cũng có thể lưu lại được chút tiền hương hỏa.
Động và giếng đều có những câu chuyện tương ứng phụ kèm theo, nhưng phần lớn chúng đều na ná nhau, đại khái chúng đều nói rằng, có một viên quanhoặc một thân sĩ chưa từng tin vào tà ma đi vào trong động, ở đó ông tagặp được Diêm La Vương, khi ra đến ngoài động ông lập tức tin vào tà ma. Những câu chuyện như thế này được tuyên truyền rộng khắp thông qua ngòi bút của Bồ Lưu Tiên và Nguyên Tử, và chúng được xã hội rất hưởng ứng.Giả như tôi có dịp xuống đến Phong Đô du ngoạn, nhất định phải hỏi thămchiếc động và chiếc giếng mà hai vị Bồ Lưu Tiên và Nguyên Tử đã viết.Ngày nay chúng ta cũng thường bắt gặp các địa phương muốn trở nên nổitiếng, họ mời một vị văn nhân nổi tiếng nào đó giá lâm, người đó cónhững cảm nhận sâu sắc về thời cổ xưa, rồi bỗng nhiên nguồn cảm hứngtrong họ dâng lên một cách khó tả, những tác phẩm đắt giá cứ thế ra đời, mong muốn làm cho cung Trường môn trở thành một cung điện vàng,