
- Ấy là vãn sinh đoán mò vậy. Thật ra ở chốn cô lậu, vãn sinh chẳng biết gì về những hoạt động tại phủ đình. Chẳng qua là muốn được về nghỉ một
lát cho đỡ mệt nên kiếm cớ đấy thôi. Các vị đừng chấp.
Mọi người đều cười. Nhân sắp đến giờ làm lễ, An Kiện đề nghị mời Thạch
Đạt Lang theo họ đến dự lễ rồi sau đó ở lại ăn cơm tối. Thạch Đạt Lang
đáp:
- Điều này thì vãn sinh chẳng thể từ chối được. Vậy xin đi theo các vị.
Cả bọn sáu người qua nhiều đường phố và hàng quán, nhưng chẳng thấy ai
mời hắn vào. Thạch Đạt Lang lấy làm lạ, lưu tâm đề phòng. Xét tuổi tác,
cách ăn nói và cử chỉ, chẳng có điều gì khả nghi. Quanh co mãi, đi hết
cả vùng có người ở, ra ngoại ô vắng vẻ, đến một khu rừng thưa mới thấy
dừng lại.
Thạch Đạt Lang tưởng đâu trong rừng có đền miếu gì, để ý quan sát. Nhưng không!
Khu rừng vắng vẻ, nắng xế chiếu qua tàn cây, vẽ những hình loang lổ, lay động trên mặt cỏ. Tiếng chim gõ kiến vẳng lại từ xa đều đều càng làm
tăng vẻ tịch mịch.
Dưới gốc cổ thụ xù xì, một người ra dáng lão bộc đã đứng đấy tự bao giờ, bên cạnh mấy bó rơm khô và hai bọc lớn. Thấy sau người tới, lão hơi
ngạc nhiên nhưng chẳng nói năng gì, yên lặng mở bọc lấy ra năm chiếc
chiếu nhỏ trải trên cỏ thành hàng sau một cái bàn thấp. An Kiện gọi
người lão bộc lại, bảo lấy thêm tấm chiếu nữa trải dưới gốc cây, mời
Thạch Đạt Lang ngồi rồi nói:
- Xin thứ lỗi cho chúng ta đã dẫn tráng sĩ đến nơi hoang dã này. Đây
chính là chỗ chúng ta hành lễ hàng năm. Buổi lễ này thật ra không bao
giờ có mặt người lạ, nhưng nay ngẫu nhiên gặp tráng sĩ, một người cũng ở Mimasaka như chúng ta, lại là con đại hiệp Mưu Ni Sai ngày trước, nên
chúng ta coi tráng sĩ như người nhà và mời đến dự kiến.
Xin cứ tự nhiên, đừng câu nệ.
Thạch Đạt Lang không rõ lý do gì buổi lễ lại không diễn ra ở một nơi
thuận tiện hơn, nhưng vì là khách nên không tiện hỏi. Hắn cảm tạ rồi
trịnh trọng ngồi xuống chiếu.
Lão bộc mang rơm đến chia cho năm người mỗi người một nắm. Họ nâng rơm
lên ngang trán, lâm râm khấn nguyện, đoạn đặt trước mặt, ngón tay thoăn
thoắt xe những cọng rơm, bện lại thành chiếc dép nhỏ dùng để lồng vào
móng ngựa cho ngựa chạy được êm hơn như người ta vẫn thường thấy trong
thời chiến.
Cả năm người lặng lẽ làm việc, môi mím lại, vẻ trang nghiêm và thành kính.
Nhìn dáng điệu hăng say và quyết tâm của họ, Thạch Đạt Lang bỗng xúc động.
Chẳng biết ngày thường, những kiếm sĩ này làm nghề gì để độ nhật, nhưng
cứ xem cung cách họ làm việc. Thạch Đạt Lang thấy hãnh diện được là đồng hương của họ.
Khi mỗi người đã làm xong một bộ bốn chiếc dép, họ xếp tất cả lên bàn, rồi vị cao tuổi nhất đứng trước bàn trịnh trọng nói:
- Mười lăm năm trước, trận Sekigahara đã để lại trong lòng chúng ta
những kỷ niệm đau thương không phai nhạt. Tuy gặp nhiều gian lao và cay
đắng, chúng ta đã sống quá tuổi thọ chúng ta mong ước. Đó là nhờ ơn Trời Phật, ơn tộc Hòa Giả đã cưu mang và ơn dòng họ Yết Mân đã dạy dỗ. Những công ơn ấy chúng ta không bao giờ quên. Hôm nay chúng ta họp nhau tại
đây để nhắc nhở những công ơn ấy và mong cho mọi người chúng ta được an
lạc.
Lời lão vừa dứt, tất cả đều đồng thanh hô lớn:
- Ơn Trời Phật, ơn tộc Hòa Giả, ơn họ Yết Mân, ba công ơn ấy xin đời đời khắc cốt.
Đoạn khấu đầu làm lễ:
một lễ tạ Ơn Trời Phật, một lễ hướng về phía lâu đài dinh Hòa Giả và một lễ về quê hương Mimasaka xa tắp. Lễ xong, lão An Kiện bưng chiếc bàn
đến những cây quanh vùng, theo sau là bốn bạn đồng cảnh, treo những
chiếc dép móng ngựa đã làm lên cành cây, vỗ tay mà khấn vong hồn các tử
sĩ về tiếp nhận.
Bữa ăn sau đó được bày ra, cũng chẳng lấy gì làm thịnh soạn:
món cá khô, món măng nấu đậu và món khoai sọ hầm. Nhưng có rượu sa-kê. Mọi người ăn uống vui vẻ.
Riêng Thạch Đạt Lang thấy ngon miệng và thoải mái vô cùng.
Trong không khí cởi mở ấy, hắn đã không ngần ngại hỏi:
- Vãn sinh rất hân hạnh được các vị tiền bối cho dự lễ hôm nay. Buổi lễ
tuy nhỏ nhưng nặng ý nghĩa. Duy có điều chưa hiểu, tại sao các vị lại
làm những chiếc dép rơm như vậy.
Từ Đồng Hữu bèn giải thích:
- Có gì đâu. Số là sau khi thua trận, năm anh em ta ngẫu nhiên gặp nhau ở đồi này. Tất cả đều đói khát rách rưới, chẳng biết nương tựa vào đâu
nữa. Nhưng xách gươm đi ăn cướp thì dù chết đói chúng ta cũng không làm. Nên họp nhau lại tìm kế. Bấy giờ tuy nói là chiến tranh đã kết liễu
nhưng nhiều nơi vẫn còn loạn lắm. Quan quân phải tuần tiễu. Ngựa chạy
nhiều thì mòn móng, vả quân tế tác cũng cần ngựa chạy cho êm nữa, nên
chúng ta họp nhau lại đan dép ngựa mà bán. Chẳng làm nghề này bao giờ,
lại không khéo tay, chỉ học lỏm của người ta nên vụng về lắm. Lúc đầu
kiếm chẳng đủ ăn, sau dần dần cũng khá. Vì vậy cho nên nhớ đến nghề cũ
đã cứu anh em khỏi cảnh khốn cùng mà năm nào chúng ta cũng làm vài đôi
dép tượng trưng như thế để đừng quên thuở hàn vi.
Kể xong, Từ Đồng Hữu bưng hũ rượu rót cho mọi người, đoạn tiếp:
- Mà tráng sĩ bận tâm làm gì đến những chuyện nhỏ mọn ấy ? Hai ngày nữa
đây, tráng sĩ sẽ ra trận. Ta ước mong tráng sĩ chiến đấu dũng cảm. Nếu
chẳng may có