
lễ những lời chúc tụng
ồn ào của họ, rồi bước đến bên thuyền đợi sẵn, theo sau là Ôn Chấn Lâm,
người đệ tử thân tín với con chim ưng hộ mệnh đậu trên cườm tay.
Hôm nay, Cát Xuyên Mộc mặc kimono lụa tay chẽn, thêu hoa chìm, quần ống
rộng bó sát vào bắp chân bằng xà cạp da, bên ngoài khoác áo choàng vóc
tía. Dép vừa đủ ấm để giữ cho quai mềm dễ đi. Trên lưng đeo cây trường
kiếm dài đặc biệt cố hữu, tuy từ khi vào nhận chức vụ giảng viên trong
giảng tập bộ, hắn chẳng mấy khi dùng đến. Cát Xuyên Mộc đẫy đà hơn
trước, gương mặt tròn hơn, phong cách cao ngạo, rõ ra là một kiếm sĩ
danh vọng.
Hắn bước lên thềm, Ôn Chấn Lâm ngồi phía sau. Lái đò đẩy mạnh thuyền
khỏi bến rồi rướn người đưa những mái chèo nhanh và gọn. Con thuyền
phăng phăng lướt sóng ra khơi giữa những tiếng hoan hô vang dậy của đám
đông đi tiễn trên bãi.
Tân khách lục đục ra về. Cạnh gốc thông, nàng Mộng Hoa nhìn theo, mắt mờ lệ.
Bên cuộc đời công, ai cũng có một đời tư. Sau những cuộc tiễn đưa linh
đình và những lời chúc tụng hoa mỹ ấy, có ai biết người thiếu nữ kia đã
khóc hết nước mắt.
Trên thuyền, Cát Xuyên Mộc vuốt ve con chim ưng hắn ưa thích. Trời xanh
biển rộng, nước trong veo, nhưng hôm nay sóng hơi lớn. Mỗi khi con
thuyền chòng chành, bọt nước văng trắng xóa lên mạn thuyền, con chim lại hung hăng xù lông, nghiêng đầu, vỗ cánh.
Cát Xuyên Mộc gõ chiếc mũ trùm mắt, tháo dây buộc chân chim ra, tung nó lên cao và nói:
- Trả ngươi về trời !
Như mọi lần, con chim xoải rộng cánh, rồi như tên bắn, rượt theo chụp
một con mồi bay ngang. Chỉ nghe tiếng quác, lông con mồi đã rơi xuống lả tả. Nhưng không thấy chủ gọi lại, nó vút lên cao mất hút trong những
tầng mây bạc.
Sau khi đã phóng thích con chim, Cát Xuyên Mộc mang bùa và các vật dụng
linh tinh khác do thân hữu tặng để cầu may, kể cả chiếc áo lót dì hắn
cho, thả từng cái một xuống biển rồi ngả lưng vào mạn thuyền nhìn trời
mơ mộng. Những thứ ấy bây giờ đối với hắn là gánh nặng và những lời chúc tụng của họ, dù thành thực đến đâu, cũng chỉ bó buộc, phiền toái chứ
chẳng giúp ích gì được.
Trước giờ giao đấu, Cát Xuyên Mộc tin vào hắn và chỉ mình hắn thôi, mọi thứ khác đều hão huyền cả.
Gió biển mặn mơn trên má. Cát Xuyên Mộc chăm chú nhìn rặng bạch tùng trên đảo Funashima hiện rõ dần trước mặt.
Ở Shimonoseki, Mạc Vãn Đạt gọi gia nhân vào hỏi:
- Ngươi đã sửa soạn thuyền bè đầy đủ như ta dặn chưa ?
- Dạ, đã sẵn sàng. Nô tài chọn chiếc thuyền nhanh nhất, kỳ cọ sạch sẽ và đã rắc muối tẩy uế, hiện neo ở sau nhà cùng với các thuyền khác.
Ông gật đầu bằng lòng, nhưng lát sau, nghĩ sao lại đổi ý:
- Thôi đừng để nó ở đấy nữa. Chèo ra chỗ ghềnh đá, gần gốc tùng lá bạc vẫn được gọi là ngân tùng ấy, ngồi đợi.
- Sao phải thế, thưa chủ nhân ?
- Thạch đại hiệp ở đây, bây giờ chắc đã nhiều người biết, ta không muốn họ đến làm phiền đại hiệp.
Dự đoán của Mạc Vãn Đạt quả đúng. Sáng nay, sự sinh hoạt trong trấn
Shimonoseki rộn rịp khác thường. Xung quanh biệt thất của ông dường như
có nhiều người qua lại dòm ngó. Có thể là quân do thám của phái Hoa Sơn
cũ, nhưng cũng có thể là những người thân thuộc hoặc kẻ đồng hương với
Thạch Đạt Lang, chẳng ai biết chắc.
Đầu giờ thìn đã qua mà chẳng thấy động tĩnh gì trong phòng Thạch Đạt Lang, Mạc Vãn Đạt thắc mắc gọi người hầu đến hỏi:
- Thạch đại hiệp còn trong phòng không ?
- Dạ còn.
- Ông hiện làm gì trong đó ?
- Thưa, ông vẽ tranh.
- Vẽ tranh ?
Mạc Vãn Đạt cau mặt. “Hừ ... Tối qua ta có đàm đạo với ông về hội họa và ngỏ ý xin một bức tranh. Có lẽ vì thế chăng ?” Khẽ thở dại, ông bảo
người hầu:
- Bây giờ không phải lúc vẽ. Ngươi vào nhắc đại hiệp đã đến giờ để đại hiệp chuẩn bị. Nói cho khéo ...
Người hầu lui ra, nhưng nghĩ sao ông lại gọi lại bảo thôi, để ông đích thân vào nhắc.
Trong phòng, Thạch Đạt Lang quỳ trên chiếu, yên lặng như người tĩnh tọa, mắt đăm đăm nhìn tờ giây trải ngay ngắn trước mặt, xung quanh la liệt
những ống bút, mực và màu nước.
Tờ giấy còn trắng nguyên. Hắn không biết vẽ gì, hay đúng hơn, có lẽ đang đắm mình trong những suy tư tìm cảm hứng cho bức tranh. Tờ giấy trắng
là vũ trụ chưa thành hình. Một nét bút đặt đúng chỗ sẽ như tia lửa khởi
đầu để phát huy sức sống mãnh liệt trong vũ trụ ấy. Chủ đề có thể là
mưa, là gió, là sấm sét hay dông bão mà cũng có thể là những vật tầm
thường, một búp non, một con kiến, nhưng phải thể hiện sức sống dạo dào
trong trời đất từ vạn kỷ trước cho đến nay và sau này, mãi mãi. Dù diễn
tả cái gì, tâm hắn cũng sẽ được phơi trải trên giấy. Tâm hắn xao động,
tranh sẽ cuồng loạn; tâm hắn yên bình, tranh sẽ thuần hậu ôn nhu, thông
điệp ấy người xem không thể không cảm thấy. Đó là cái hồn của tranh và
nó sẽ còn mãi, lưu lại trên giấy dù sau khi thể xác hắn đã mai một. Cho
nên hắn cố giữ cho lòng thư thái, để tâm tư hòa hợp trong một trạng thái đồng nhất. Phải đó là chân như của nhà Phật hay không, hắn không dám
xác quyết nhưng hắn tin trạng thái ấy sẽ gây cho hắn một nguồn cảm hứng
chân thật và sẽ là cái hồn của bức tranh hắn muốn lưu lại sau này.
Tiếng động ngo