Thạch Kiếm

Thạch Kiếm

Tác giả: Tự Tỉnh

Thể loại: Truyện kiếm hiệp

Lượt xem: 327645

Bình chọn: 7.5.00/10/764 lượt.

người ngoài không để ý.

Tò mò, nàng đến gần gạt cành lá ra, nhìn vào. Bên trong tối như hũ nút.

Định thần một lát, Oa Tử thấy lờ mờ có bóng người nằm và lắng nghe, hình như lại có tiếng rên nho nhỏ nữa. Đúng rồi ! Chắc bà Hồ Điểu bị nhốt

trong này chứ không ai khác.

Mừng vô hạn, nàng hét lớn:

- Bà Hồ Điểu ! Bà Hồ Điểu ! Con đây, con đến cứu bà đây !

Tiếng rên ngưng bặt. Không hiểu sao, Oa Tử lo sợ, gọi rối rít và cố lách mình qua khe đá. Nhưng khe đá quá hẹp không thể nào làm gì được. Nàng

đẩy mạnh tảng đá, một lần, hai lần. Vô hiệu. Nàng vận toàn lực, tảng đá

vẫn trơ trơ không nhúc nhích.

Tóc Oa Tử xổ tung. Vừa giận vừa tức, nàng thở hổn hển, trong lòng thầm

trách Giang tàn ác. Mưa lại bắt đầu rơi lộp bộp. Mặc. Mặc cho nước lạnh

đổ xuống ướt cả hai vai, chui cả vào cổ vào gáy, lòng bồn chồn, da nàng

nóng ran như lửa đốt. Oa Tử dùng hết sức đẩy tảng đá ra một cách tuyệt

vọng nhưng chẳng ích gì. Nàng ngồi phệt xuống bùn, nước mắt bi phẫn chảy dài trên má. Nàng tự hỏi không biết Giang đã làm cách nào vần tảng đá

lớn này đến bít cửa hang được.

Đột nhiên Oa Tử sực nghĩ ra. Nàng lập tức đứng dậy, lựa cành cây dài và

lớn nhất thò vào khe đá ra sức bẩy. Tảng đá hơi nhúc nhích, rồi bỗng

“ùm” một tiếng, nó lăn kềnh ra, văng bùn đất lên tung toé.

Vất cành cây sang bên, Oa Tử chạy vội vào trong hốc đá, quên cả lau mặt.

Trong góc, bà Hồ Điểu nằm ngay đơ, tay vẫn bị trói và miệng bịt vải.

Nước mưa long tong rỏ từ những khe đá xuống quanh chỗ bà nằm ướt sũng.

Oa Tử tháo vải bịt miệng và cởi trói cho bà. Tay chân bà lạnh tanh tựa

xác cá, nhưng áp mặt vào gần miệng còn thấy hơi thở nhẹ. Nàng lay mạnh

và gọi tên bà liên hồi:

- Bà Hồ Điểu ! Bà Hồ Điểu !

Không nghe trả lời mà cũng chẳng thấy động tĩnh, Oa Tử giật tóc mai,

vuốt ngực, hà hơi vào mũi để truyền hơi ấm. Vô hiệu. Bà Hồ Điểu vẫn nằm

im thiêm thiếp.

Ngoài kia trời bắt đầu hửng nắng. Ánh sáng chiếu vào, hốc đá trông rộng

hơn. Oa Tử thấy đối diện chỗ nàng ngồi một hình người vẽ trên vách đá.

Nét vẽ tuy thô sơ, rêu bám từng mảng loang lổ nhưng ai cũng nhận được

đấy là chân dung đức Bồ tát Quán Thế Âm. Bên dưới viết nhiều hàng chữ đã hoen ố, nhòe nhoẹt vì thời tiết và năm tháng.

Oa Tử tò mò đọc. Hàng chữ thuật chuyện người đi tìm con mất tích trong

cuộc chiến năm Tý, thời Ashikaga, qua đây ngồi nghỉ trong hốc đá này đã

cầu xin đức Bồ tát phù hộ. Ngài hiện lên chỉ lối cho, nhờ đó mà tìm

được. Lúc trở về, vẽ chân dung này tạ Ơn và khuyên kẻ đi sau nếu gặp khó khăn gì, qua đây, cứ cầu ngài sẽ được ứng nghiệm.

Oa Tử nhẩm tính. “Năm Tý, thời Ashikaga, lâu lắm rồi, dễ có đến bảy tám

chục năm”. Bấy giờ nàng chưa ra đời nhưng tưởng tượng đến những đau

thương mà chúng sinh phải chịu trong cuộc chiến, nàng bồi hồi xúc động.

Bản tính đa cảm và nặng lòng trắc ẩn, Oa Tử phủ phục xuống dưới chân đức Bồ tát, lâm râm khấn nguyện, xin ngài phù hộ cho bà Hồ Điểu tai qua nạn khỏi và độ cho bà qua cơn u mê của lòng thù hận.

- Tâm vô sở trụ, hành ư bố thí, bồ tát ư pháp. Nam mô Quán Thế Âm Bồ

tát. (Phép bố thí của bồ tát không vướng mắc, không phân biệt mình và

người. Chẳng mong trả ơn và chẳng cầu phúc báo - kinh Kim Cương).

Tụng xong đoạn kinh và niệm chú, Oa Tử thành tâm lạy ba lạy, kéo áo chấm nước mắt, đoạn lết đến bên bà Hồ Điểu gọi nhiều lần nữa. Bà vẫn nằm trơ trơ, mắt nhắm nghiền, hơi thở thoi thóp.

Bên ngoài, nắng chan hòa đổ lên cây cỏ, phản chiếu long lang những giọt

nước mưa vừa tạnh. Oa Tử bước khỏi hốc đá, rẽ cỏ tìm lối ra, hy vọng gặp người qua lại giúp một tay cứu bà Hồ Điểu. Nhưng cảnh vật vắng hoe, gió lau xào xạc, trước nỗi xót xa của Oa Tử, thiên nhiên chẳng mảy may xúc

động.

Mệt lả, nàng muốn khuỵu xuống. Trong ánh nắng chói chang, mắt hoa tai ù, nàng không trông mà cũng chẳng nghe tiếng gọi lo âu của Giang vừa mới

tới:

- Cô Oa Tử ! Cô Oa Tử ! Cô sao thế ?

Đón Giang bằng đôi mắt vô hồn, Oa Tử chỉ tay về phía hốc đá. Giang dìu nàng vào. Nàng thều thào:

- Lạnh quá ! Em nhóm giùm cô ngọn lửa.

Giang nhặt cành khô. Một ngọn lửa nhỏ được nhóm lên, khói nghi ngút,

nhưng cũng xua đuổi được đôi phần không khí lạnh lẽo trong hốc đá.

Nhìn bà Hồ Điểu nằm dài trong hốc rồi lại nhìn Oa Tử, Giang đã hiểu. Nó

lấy cái bát sành đặt lên đống củi, đun nước pha chút trà đưa cho nàng

rồi thấm nước trà lên miệng bà Hồ Điểu. Có lẽ nhờ hơi ấm của ngọn lửa và lòng kiên nhẫn của nó mà bà già dần tỉnh. Bà rên khe khẽ, đôi lúc đứt

quãng, hơi thở khò khè.

Cơn nguy cấp đã qua, Oa Tử bấy giờ mới thấm mệt. Đôi mắt nàng díu lại,

dựa đầu vào vách đá, nàng lả người đi, bên tai văng vẳng nghe xa xôi

tiếng Giang kể căn lều đã bị gió thổi sập và giữa tiếng củi nổ lách tách cùng những đợt khói bốc cao, nàng tưởng như nhìn thấy nét mặt từ bi của đức Bồ tát Quán Thế Âm hiện rõ.

- Nam mô a lị gia bà lô kiết đế, bồ đề tát đỏa bà da ...

Tiếng niệm chú của bà Hồ Điểu kéo Oa Tử ra khỏi giấc mộng. Nhìn quanh, không thấy Giang đâu, Oa Tử bò đến bà, lay dậy:

- Bà Hồ Điểu ! Bà Hồ Điểu ! Bà tỉnh chưa ?

Bà Hồ Điểu lép nhép miệng rồi lại nằm yên. Oa Tử ra cửa


Ring ring