
ấy, em chưa bao giờ gặp lại sư phụ.
Rồi chuyện nọ lan man sang chuyện kia, Oa Tử lại biết Thạch Đạt Lang thu thêm một đồ đệ nữa tên Hạo Nhiên, và cũng nhờ Đại Quán mà Giang gặp
được thân phụ.
Ông tên Hoa Kính Áo Đại Môn, trước là đội trưởng phục thị tại lâu đài
Himeiji. Nhắc đến tên Áo Đại Môn, Oa Tử ngạc nhiên hết sức. Hồi tưởng
lại buổi đối chất giữa đội trưởng Áo Đại Môn và thiền sư Đại Quán tại
chùa Tiểu Sơn, nàng không khỏi thở dài.
Con tạo đa đoan thật ! Nếu không do cơ duyên tiền định thì sao mọi việc kết thúc êm đẹp như thế:
Áo Đại Môn vào tu ở thiền viện còn Giang trưởng thành như ngày nay.
Rồi như sực nhớ ra, nàng hỏi đến bà Hồ Điểu:
- Em giấu bà Hồ Điểu đi phải không ?
- Dạ phải.
- Nghĩ đến thật kinh hãi. Lúc ấy cô sợ quá ngất đi, sau chẳng nhớ chuyện gì xảy ra nữa. Sao em biết mà đến cứu ?
- Dạ, tình cờ. Thầy Đại Quán bảo em đến Vân Lĩnh tự tìm thân phụ. Nấn ná ở đó ít lâu, thấy sự ruồng xét những người theo Đại Cổ có phần êm và
nếp sống thiền viện không hợp nên em bỏ đi. Em muốn tìm sư phụ, sống
cuộc đời ngang tàng không câu thúc. Nhân qua địa phận thôn Makazuki, thế nào lại gặp bà Hồ Điểu cùng đi với hai gia nhân. Bà không nhận ra em,
em đi sau nghe lỏm chuyện họ trao đổi với nhau, biết bà đang lập kế bắt
người. Khả nghi họ định bắt cô vì đã lâu không nhận được tin tức gì của
cô cả, em theo dõi. Quả nhiên đúng.
- Rồi em giấu bà Hồ Điểu ở đâu ?
- Trong hốc đá gần ngôi miếu cô bị bắt hôm qua.
Nhìn ngọn lửa, Oa Tử thấy lòng mềm hẳn lại. Bà Hồ Điểu tuổi đã cao, lại
mắc chứng phong thấp, chắc bà vừa lạnh vừa đói. Dù bà đối xử với nàng ra sao, nàng cũng không thể nhẫn tâm để bà trơ trọi trong hốc đá ẩm ướt
như thế được. Lòng thương xót kẻ thế cô, yếu đuối khiến nàng quên hết
thù hận.
- Sao hôm qua lúc đi ngang miếu, em không thả bà ấy ra để bà về làng ?
- Không được. Bà sẽ làm phiền cô mãi.
Oa Tử lắc đầu:
- Tội nghiệp ! Đêm lạnh thế này ... Cô không đành lòng. Em nhẫn tâm quá !
Bên ngoài, vừng đông vừa rạng. Oa Tử sửa lại mái tóc và y phục rồi hỏi Giang:
- Quanh đây có dòng suối nào không em ? Cô muốn kiếm chút nước uống.
- Có con suối nhỏ nhưng khá xa. Cô cứ ngồi đây, em đi lấy nước, nếu tiện sẽ tạt vào xóm mua chút gì ăn đỡ dạ.
Oa Tử gật đầu. Tuy vậy nàng không nghe lời Giang. Nàng đã có chủ ý. Chờ
Giang đi khuất hẳn, Oa Tử dập tắt lửa. Thấy manh chiếu Giang để lại, Oa
Tử cuốn mang theo phòng khi cần đến, hối hả bước ra khỏi lều.
Sáng đã lâu mà trời còn u ám. Phương đông mây xám giăng đầy, cảnh vật im lìm, ảm đạm như được phủ lên một màu mực loãng. “Có lẽ trời sắp mưa
lớn“, Oa Tử nghĩ thầm, và hơn lúc nào hết, thấy việc đi cứu bà Hồ Điểu
thật là cấp thiết.
Đến gần ngôi cổ miếu, quả nhiên trời nổi gió to. Bốn bề tối sầm lại
tưởng sắp có bão. Cỏ cây nghiêgn ngả. Một ánh chớp lóe lên sáng rực,
tiếp theo là tiếng sét nổ chát chúa. Oa Tử giật mình sợ hãi, chạy nhanh
vào miếu.
Trong miếu tối om, mùi ẩm mốc xông nồng nặc. Ngại không dám vào sâu,
nàng ngồi gần cửa, co ro. Sấm sét ầm ầm xung quanh, lâu lâu lại có lằn
chớp nhoáng lên, in trên tường miếu những bóng đen hình thù cổ quái.
Rồi mưa đổ xuống như trút, ào ào, xối xả trên mái ngói. Ngoài cửa miếu,
trên những bậc đá phủ rêu đen, nước mưa bắt đầu chảy nhanh, làm thành
dòng thác ba tầng cuốn phăng phăng lá khô và cành gẫy.
Oa Tử nửa sợ nửa mừng vì vừa kịp tìm được chỗ trú. Nhưng miếu trống
trải, gió thổi ào ào thốc qua chỗ nàng ngồi, hắt vào mặt nàng những giọt nước lạnh buốt. Cực chẳng đã, nàng phải lùi vào sâu phía trong, nhưng
cũng chẳng hơn gì. Trong miếu chỗ nào cũng dột. Oa Tử buộc manh chiếu
lên đầu, dùng tạm như một cái nón. Ngồi bó gối trong góc, giữa cơn thịnh nộ của trời đất, nghe những giọt mưa rơi lộp bộp trên chiếc nón bất đắc dĩ ấy, nàng bỗng cảm thấy hạnh phúc, một hạnh phúc nhỏ bé và đơn sơ
nhưng cũng làm nàng thỏa mãn.
Lâu lắm mưa mới ngớt hột và trời hửng sáng tuy gió còn mạnh. Qua tiếng
gió ù ù, nghe như có lời cầu khẩn tuyệt vọng của bà Hồ Điểu đâu đây. Oa
Tử đứng dậy rồi không ngần ngại, sửa lại nón, vén áo bước vội ra cửa.
Bên ngoài, cành gãy ngổn ngang. Nước mưa róc rách len qua khe đá chảy
xuống chỗ trũng đọng thành vũng đục ngầu. Ghềnh đá rêu phủ trơn trượt.
Oa Tử đi mỗi quãng mỗi dừng, hốc đá nào cũng ghé mắt nhòm vào, hy vọng
tìm được chỗ giấu bà Hồ Điểu.
Vừa đi nàng vừa gọi:
- Bà Hồ Điểu ! Bà ở đâu, con đến cứu bà đây !
Đôi lúc, tiếng nàng lạc đi trong gió và trong tiếng sấm ầm ì đằng xa.
Nhưng đi đã lâu, gọi khản cổ mà không nghe đáp. Dường như tạo hóa vô
tình, dửng dưng trước những cố gắng phi thường của người thiếu nữ nhiều
lòng trắc ẩn.
Lạnh, đói, mệt khiến Oa Tử bước không vững. Đến một khe núi, nàng ngồi
dựa lưng vào một tảng đá khuất gió để nghỉ, lấy tay vắt những chỗ quần
áo sũng nước cho đỡ ướt. Nghĩ đến một tách trà nóng có đường, thật nhiều đường, Oa Tử thèm chảy nước dãi.
Bỗng một khe hở trong núi làm Oa Tử chú ý. Khe hở này không tự nhiên,
dường như được ai bít lại bởi một tảng đá lớn, xung quanh lại lấy nhiều
cành lá xếp che khuất đi cho