
Vinh quang ở đâu ? Bên này hay bên kia cánh cổng ? Thạch Đạt Lang bước nhanh, tự cho mình đã gặp may mắn.
Vạn Mẫn Chương trở lại khách sảnh. Ông nhìn bức họa hãy còn ướt mực. Bức họa vẽ cảnh đồng Musashino, cỏ cháy vàng chiếm nửa bình phong. Chính
giữa là vầng thái dương đỏ thắm, và thủy mặc được dùng để diễn tả bầu
trời mây vần vũ của một ngày dông bão.
Vạn Mẫn Chương lẩm bẩm:
“Con hổ đã được Tôn gia thả về rừng mất rồi !”.
oo Hôm sau, Thạch Đạt Lang trở lại lều, bộ lễ phục vẫn còn cứng bột hồ
nhưng bụi đất đã làm lem nhem những chỗ lụa trắng. Lâm Bằng mừng rỡ:
- Mừng đại huynh ! Đệ chờ từ sớm. Đại huynh đi rửa mặt rồi thay áo. Có phải nhận việc ngay không ?
Thạch Đạt Lang cười:
- Không. Đề nghị bị bác.
- Bị bác ? Đại huynh không giỡn đấy chứ ?
- Ai giỡn làm gì !
- Tiếc quá nhỉ ! Khó có cơ hội như thế nữa.
- Hiền đệ mà cũng nghĩ vậy à ? Hiền đệ cho là vinh quang chỉ ở trong Tôn phủ hay sao ?
Lâm Bằng không đáp. Thạch Đạt Lang lại tiếp:
- Một thời, ngu huynh cũng có ý muốn đem sở học và kiếm thuật đặt dưới
chân minh chủ mình chọn lựa, mơ tưởng kiếm đạo đi đôi với chế độ để xây
dựng một quốc gia cường thịnh.
- Phải vậy chứ. Tiểu đệ cũng nghĩ thế.
Thạch Đạt Lang lại cười:
- Vậy là chúng ta đồng ý kiến. Nhưng giấc mơ ấy tan rồi ! Đó chỉ là giấc mơ không sát thực tế. Có bao giờ hiền đệ tự hỏi nếu gặp một chế độ
không chủ trương xây dựng quốc gia thì những người cầm kiếm phục vụ cho
chế độ ấy phải xử sự thế nào ? Bị cuốn vào cơn lốc, người cầm kiếm không có lối thoát, sẽ bị dùng như một món đồ cho đến chết và nhiều khi không biết rằng mình chỉ là một món đồ ...
Lâm Bằng cau mặt:
- Vậy đại huynh đứng ngoài xã hội hay sao ?
- Không. Hiền đệ chớ nghĩ thế. Chừng nào còn dân tộc Nhật, còn quốc gia
Nhật thì kiếm đạo vẫn còn là ngọn đèn sáng chỉ đường và giữ vững tinh
thần cho huynh.
Nói rồi lảng sang chuyện khác, Thạch Đạt Lang hỏi:
- Hạo Nhiên đâu ?
- Nó vào rừng kiếm củi.
Thạch Đạt Lang lấy giấy bút ra thảo một bức thư đưa cho Lâm Bằng và nói:
- Nhờ hiền đệ mang trả ngựa và giao thư này cho vị hào trưởng vùng Akagi là Hà Chu Cát Tỉnh. Nếu gặp thiền sư Đại Quán ở đó, cũng xin chuyển lời cảm ơn nồng nhiệt của ngu huynh đến các vị. Chắc các vị đó đã biết ngu
huynh không được thu nhận vào chức vụ đề nghị rồi.
- Đại huynh có nghi là vì bị gièm pha chăng ?
Thạch Đạt Lang gật đầu:
- Cũng có thể ! Nhưng bị gièm pha hay không, ngu huynh chẳng bao giờ để
ý. Tuy nhiên, xin hiền đệ nói thêm để các vị ấy biết ngu huynh không
đích thân đến cám ơn được vì ngại sự liên lạc quá mật thiết có thể khiến các vị bị liên lụy và xin miễn chấp cho.
- Tiểu đệ hiểu, xin đi ngay bây giờ.
- À, còn việc này nữa ...
Thạch Đạt Lang vừa nói vừa rút ra một túi gấm đưa cho Lâm Bằng:
- Cái này là của Hạo Nhiên. Phiền hiền đệ giao lại cho nó, bảo nó phải gìn giữ cẩn thận vì là di sản độc nhất cha nó để lại.
Lâm Bằng trố mắt nhìn Thạch Đạt Lang:
- Sao vậy ? Đại huynh đi đâu ?
- Ngu huynh lên núi.
- Đi đâu cũng cho tiểu đệ đi theo. Cả Hạo Nhiên nữa.
Nhưng Thạch Đạt Lang nghiêm nghị:
- Ngu huynh không ra đi vĩnh viễn. Trong lúc vắng mặt, nhờ hiền đệ dạy dỗ Hạo Nhiên cho và coi nó như đồ đệ.
- Đại huynh lên núi ở ẩn chăng ?
Thạch Đạt Lang cười rộ, ngả người chống tay lên chiếu rồi lập nghiêm:
- Chẳng phải thế. Ngu huynh còn trẻ, cũng muốn có sự nghiệp chứ. Biệt
hiền đệ, không vui gì. Nhớ mấy câu thơ của một thi sĩ Trung Hoa đời
Đường, xin đọc để tặng:
Tịch tịch cách hà đãi Triêu triêu không tư quy Dục tầm phương thảo khứ
Tích dữ cố nhân vi (Đợi gì không hưởng trọn yên tĩnh. Sớm nào cũng trở
về không. Muốn tìm nơi cỏ thơm mà tới. Chỉ tiếc phải xa cố nhân).
Lâm Bằng nghe, lòng buồn vời vợi, cầm tay Thạch Đạt Lang nghẹn ngào. Lúc sau lên ngựa từ biệt.
Đến lâu đài Akagi, Đại Quán vẫn còn đó, đang cùng chủ nhân đàm đạo. Cả
hai đã được thông báo quyết định của Tôn đầu lãnh. Lâm Bằng đưa thư, đọc xong mới biết ý định của Thạch Đạt Lang muốn xa Edo một thời gian. Lại
nghe Lâm Bằng nói Thạch Đạt Lang không đích thân đến giã biệt được vì sợ liên lụy đến ân nhân, ai cũng cho hắn quá cẩn thận.
Hà Chu Cát Tỉnh đề nghị:
- Hắn đã không đến ta được thì ta đến hắn, ngại gì !
Đại Quán gật đầu đồng ý. Bèn cùng nhau lên ngựa tới đồng cỏ.
Đến nơi, căn lều vắng lặng. Trên trời cao, chỉ thấy một đám mây trôi lờ lững. Trải tấm lụa vừa nhuộm xong lên cỏ, Oa Tử giở nón ngồi nghỉ. Nước hồ xanh trong gợn sóng lăn tăn và tấm lụa nàng vừa nhuộm cũng một màu xanh mát, duy lòng nàng sao bồn chồn như
lửa đốt.
Hai tháng trước, khi còn ở cốc Trúc Lâm, nghe tin Thạch Đạt Lang được
vời vào Tôn phủ, Oa Tử vui mừng hết sức. Thôi thế là từ nay hết lo sợ
phập phồng và sự sum họp với người yêu không còn là một ảo tưởng. Thấp
thỏm mừng thầm, nàng chỉ chờ dịp thuận tiện dời khỏi cốc. Nhân cốc chủ
là Trúc Mộ lão nhân mới quy tiên, tuần bách nhật vừa mãn, Oa Tử mượn cớ
không tiện ở thêm, vào gặp Mẫn Đức là cháu của Trúc Mộ hiện giữ chức
quản trị gia nhân, xin cáo biệt đi Edo. Mẫn Đức lưu lại thế nào cũng
không được, vả sau khi t