
ước một tấm cửa gỗ dày có ghi chữ “văn phòng thủ tòa”, hắn gõ cửa. Một vị tăng phong thái khắc khổ bước ra nghênh tiếp. Sau khi nghe hắn trình bày có việc liên quan
đến người tên Đại Cổ ở Nara, vị tăng trịnh trọng dẫn hắn vào, mời ngồi
trên bồ đoàn trong một gian phòng rộng, bài trí trang nhã. Trong phòng,
nhiều tủ sách thấp trưng bày kinh Phật và vô số đồ cổ ngoạn.
Sa di bưng trà ra, rồi bánh, trái cây đang mùa và cả một bình rượu sa-kê thượng hạng. Tất cả đặt trên những khay sơn mài khảm xà cừ cực kỳ mỹ
lệ. Thạch Đạt Lang không ngạc nhiên vì những món đồ đãi khách xa xỉ,
nhưng ngạc nhiên vì sự tiếp đãi quá trọng hậu ấy.
Thủ tòa là một vị tăng trung niên, mập lùn, da đỏ hồng, xúng xính trong bộ thiền phục màu vỏ dà, bước ra chắp hai tay:
- A di đà Phật ! Thiểm tòa lại được cung nghênh thí chủ lần nữa. Cửa
thiền cô lậu, chẳng có gì xứng đáng đãi khách, mong thí chủ đừng để ý.
Biết có sự nhầm lẫn, Thạch Đạt Lang vội cải chính:
- Tại hạ mới đến đây lần đầu. Tại hạ chỉ là một giang hồ lãng nhân muốn biết tung tích Đại Cổ tiên sinh ở Nara mà thôi.
Thái độ thủ tòa lập tức đổi khác. Ông nhìn Thạch Đạt Lang từ đầu đến
chân, mặc dù ông chỉ đứng đến ngực hắn, cất giọng hách dịch:
- A ! Vậy thí chủ đến đây không phải để dâng cúng gì mà chỉ để hỏi tin
tức một người khác đã dâng cúng vào đền thôi, phải không ?
- Dạ phải. Tại hạ chỉ có mục đích ấy !
- Thế tại sao không nói trước ?
- Tại hạ đã nêu rõ là việc có liên quan đến một người tên Đại Cổ chứ không hề nói cung hiến tài vật gì. Chắc có sự hiểu lầm.
- Vậy thí chủ là giang hồ khất sĩ đấy ! Ta chẳng biết và cũng chẳng muốn hỏi danh tính quê quán thí chủ làm gì, nhưng nói cho thí chủ hay bản
tòa không bao giờ tiết lộ những tin tức như thế. Muốn biết điều gì cứ
coi sổ.
Nói đoạn, hất hàm bảo sa di mang sổ tới. Thạch Đạt Lang liếc qua chỉ thấy ghi vỏn vẹn:
“Đại Cổ ở Nara, cúng ba lần, mỗi lần lạng”, ngoài ra không tin tức gì khác.
Bèn cảm ơn và bước ra cửa.
Buổi lễ đang hồi thịnh. Đoàn nhạc công áo vóc viền vàng, đội mũ cao
nghệu, thổi sáo trúc, tiếng ríu rít lảnh lót như chim. Ca công đeo mặt
nạ, vừa đi vừa múa hát một bài lễ ca, thỉnh thoảng lại đập vào mặt trống đeo trước ngực kêu “Bung ! Bung !” để giữ nhịp. Nhìn cảnh ấy, Thạch Đạt Lang tưởng mình đang sống lại thời thơ ấu đi xem hội đền Mimasaka ngày
trước. Hắn như thấy hiện ra trước mắt cũng đám đông ấy, lẫn lộn giữa
những người dân quên chen lấn nhau, nét mặt trắng hồn nhiên của Oa Tử,
cái cười chân thật ngờ nghệch của Mãn Hà Chí, và cậu Ngô em bà Hồ Điểu
đi đi lại lại dáng điệu quan trọng. Và mờ ảo như sương khói, mẹ hắn lo
lắng đến tìm hắn sợ hắn về khuya.
Tiếng trống cái càng lúc càng dồn dập. Khúc ca đổi khác, điệu múa nhanh
hơn, rồi quay cuồng như trong một cơn lốc, cả đoàn vũ công chạy tròn
quanh sàn gỗ, những chiếc mặt nạ lắc lư, kệch cỡm nhìn đám người lố nhố
đứng dưới sàn qua đôi mắt trắng dã ghê sợ. Thạch Đạt Lang biết cảnh này. Hắn cũng thuộc cả lời của khúc ca diễn tả những khổ hình dưới âm ty
trừng phạt kẻ báng bổ thần linh. Hắn nhìn hai tay người đánh trống cái.
Đột nhiên, sự phát hiện nổ ra như tiếng sét. Hắn nín thở.
- Phải rồi ! Phải rồi ! Song kiếm !
Thạch Đạt Lang mừng rỡ hét lên. Vài người đứng gần quay đầu lại tưởng
hắn điên, nhưng rồi sự ngạc nhiên của họ cũng qua mau. Tiếng hét của hắn chìm ngay vào âm thanh cuồng loạn của điệu nhạc và những tiếng chân dậm thình thịch trên sàn gỗ.
Hạo Nhiên ngồi vắt vẻo trên cành cây ngay trên đầu Thạch Đạt Lang nhìn xuống:
- A ! Thầy đã đến ! Con ở trên này, thầy !
Thạch Đạt Lang chẳng nghe thấy gì. Mắt hắn chăm chú dán vào đôi tay kẻ
đánh trống. Không phải trong sự mê say âm hưởng của loại nhạc khí cổ
điển này nhưng hoàn toàn bị khích động bởi đôi dùi trống.
- Phải rồi ! Hắn lẩm bẩm. Đôi dùi trống và song kiếm ! Cùng một nguyên lý. Hai chiếc dùi trống, một tiếng phát ra.
Thạch Đạt Lang khoanh tay, đăm đăm quan sát từng cử động của người đánh trống.
Thật là giản dị. Người ta sinh ra có hai tay, tại sao không dùng cả hai ? Trong cuộc giao đấu, mọi người thường chỉ dùng một kiếm, mãi rồi thành
quen, thành lệ. Nếu cầm kiếm tay phải, tay trái sẽ không còn thuần thục
nữa. Cầm kiếm cả hai tay, lợi biết bao nhiêu. Trước đây, trong trận
chiến dưới gốc cổ tùng, hắn đã dùng cả hai kiếm, trường kiếm tay phải,
đoản kiếm tay trái. Nhưng đó là một hành động phá lệ, không chính thống. Đối diện cái chết trước mắt, như một con thú bị dồn vào chân tường, hắn phải tận dụng mọi phương tiện và khả năng để tự cứu. Bây giờ, hắn thấy
hành động ấy thật tự nhiên, nếu không nói là muốn chiến thắng mà không
hành động như thế thì thật dại dột.
Trong binh pháp, không một võ tướng nào cầm quân lại dại dột chỉ bảo vệ
một bên sườn đạo quân của mình, còn sườn bên kia bỏ trống. Tại sao một
kiếm sĩ đơn độc lâm trận lại chỉ cầm kiếm một tay ? Sự phi lý ấy hẳn do
tập quán. Tập quán đã khiến một hành động tự nhiên của con người trở
thành không tự nhiên, tỉ như đi bằng một chân vậy. Tập cho quen thì đi
một chân cũng được nhưng sao bằng h