
khác thấy
nguy hiểm có lẽ đã rút kiếm xông bừa, áp đảo địch thủ, thắng bại trông
vào tài năng. Hành động của Thạch đại hiệp thật khác thường, giải quyết
vấn đề êm thấm và thích đáng.
Nói đoạn, quay sang Thạch Đạt Lang ngồi ở góc phòng, ông tiếp:
- Mạnh Đạt có đề cập đại hiệp nhiều lần với lão phu và cách đây không
lâu, có trình bức thư của đại hiệp. Bấy giờ vì căn bệnh của lão nhân gia trở nên trầm trọng nên rất tiếc đã không chiều lòng đại hiệp được. Tuy
nhiên ...
Ông ngừng lại một lúc. Đại Quán hỏi:
- Vậy tình trạng của Trúc Lâm lão tiền bối bây giờ ra sao ?
- Cũng không khá hơn trước mấy. Gia nghiêm tuổi đã cao, nếu chẳng may mệnh hệ nào ...
Nhưng bỏ dở câu nói, Trúc Mộ lại trở về với ý lúc nãy:
- Nếu không nệ, xin đại hiệp coi những lời yêu cầu trong thư như thế là
đã thực hiện. Lão phu hy vọng, phương cách không mấy công chính ấy không làm đại hiệp phật ý !
Thạch Đạt Lang rạp đầu:
- Tiểu nhân đâu dám trái lệnh.
Sự cung kính của Thạch Đạt Lang cũng chỉ là tự nhiên. Trúc Mộ tướng công ở vào một địa vị quá cao, không những ở hiện tại, mà vào hàng danh gia
thế tộc từ lâu đời. Đối với một kiếm sĩ lang bạt và nghèo như Thạch Đạt
Lang, sự có mặt của hắn với ông cùng trong một phòng đã là điều lạ,
huống chi còn ngồi chung đàm đạo với nhau như bạn hữu.
Chủ nhân gọi tì nữ hâm rượu mang tới. Chén chú chén anh, câu chuyện lan
man sang nhiều vấn đề khác ngoài lãnh vực võ học. Thạch Đạt Lang nhận
thấy sự phân biệt tuổi tác và giai cấp xã hội không còn nữa. Đại Quán và Cát Tỉnh, cả hai đều không tỏ vẻ gì quan tâm đến chức tước của Trúc Mộ
cả. Họ coi nhau như anh em và hắn cũng đã được chấp nhận như thế vì cùng theo một lý tưởng đi tìm tinh hoa của Đạo, dù đó là thiền đạo hay kiếm
đạo.
Rượu được vài tuần, Đại Quán hỏi Thạch Đạt Lang:
- Oa Tử dạo này thế nào ?
- Đã lâu lắm con không được tin tức gì của nàng.
- Mô Phật ! Ngươi không quan tâm gì đến nàng nữa sao ?
- Oa Tử phải chăng là thiếu nữ trước đây hầu cận lão nhân gia ở Trúc Lâm cốc ?
Trúc Mộ hỏi.
- Thưa chính phải.
- Thế thì lão phu biết. Năm ngoái, nàng được Mạnh Đạt dẫn về tướng phủ,
bây giờ lại trở lại Trúc Lâm cốc rồi. Nàng giúp xá điệt săn sóc lão nhân gia.
Nhân cơ hội, Đại Quán nói sơ về thân thế Oa Tử và mối liên hệ giữa nàng với Thạch Đạt Lang. Nhà sư kết luận:
- Bần tăng nghĩ sớm muộn gì cũng phải có giải pháp thỏa đáng mà bần tăng là kẻ tu hành không tiện đứng ra tác hợp. Xin nhị vị giúp cho một tay.
Thạch Đạt Lang cúi đầu yên lặng, trong lòng hết sức phân vân. Giữa tình
yêu và sự nghiệp, sự giằng co vẫn chưa ngã ngũ. Trước kia, trên cầu
Hanada, khi khắc những dòng chữ từ biệt lên thành cầu, hắn đã quyết tâm
trốn tránh Oa Tử. Nhưng lòng hối hận day dứt, hắn lại tìm gặp người yêu. Quãng đường từ quán Liễu Kiều đến thác Phu Phụ còn để trong tâm khảm
hắn bao nhiêu xúc động mà mỗi khi nghĩ đến, Thạch Đạt Lang lại thấy lòng rộn lên một niềm yêu thương dào dạt. Không ngờ con tạo trớ trêu, chia
ly xảy ra liền đó. Âu cũng là số mệnh, nhưng đối với Thạch Đạt Lang, vô
tình số mệnh đã dẫn hắn tiếp tục đi theo con đường tuy cam go nhưng đầy
khích lệ của kiếm đạo. Hắn đã quên Oa Tử, đắm mình trong việc tập luyện, quên bản thân, giúp dân xóm tiều Hotengahara chống giặc cướp và nhọc
nhằn canh tác.
Cho đến đêm nay, trong cuộc hội ngộ bất ngờ này, Thạch Đạt Lang không
ngờ lại bị đặt trước một quyết định khó khăn. Như một đống tro chưa tàn
hẳn, lời nói của Đại Quán là cơn gió khơi dậy ngọn lửa yêu đương trong
lòng hắn và nhắc cho hắn đừng quên trách nhiệm và bổn phận đối với người con gái đã từng cứu hắn thoát khỏi cơn nguy khốn năm xưa. Động lực nào
đã run rủi nhà sư làm việc này ? Đó là một suy tính có kế hoạch hay chỉ
là lòng thương xót chúng sinh ? Thạch Đạt Lang bối rối.
Cát Tỉnh gật gù khen phải và Trúc Mộ cũng cho rằng đã đến lúc Thạch Đạt
Lang phải ổn định đời sống. Trong thâm tâm, ông nghĩ nếu hắn chịu lập
thân tại Tân đô thì sau này tộc Tôn Điền sẽ có thêm một tay kiệt xuất và không còn lo gì những cuộc nổi loạn nữa. Về tình và lý, xem ra cả hai
người đều tán đồng ý kiến của Đại Quán và hoan hỉ đứng ra bảo trợ cuộc
hôn nhân. Ngoài ra, Trúc Mộ dự định sẽ đề bạt Thạch Đạt Lang vào một
chức vụ huấn luyện kiếm thuật trong giảng huấn bộ của Tôn lãnh chúa.
Ngặt nỗi chức này phải tuyển chọn rất kỹ và người được đề bạt ít nhất
phải là thành viên của vệ binh đoàn trong phủ. Nhất là sau vài vụ nổi
loạn được phát giác kịp thời và dập tắt, sự thanh lọc hàng ngũ những cận vệ của Tôn Điền lãnh chúa càng gắt gao hơn nữa. Vấn đề gai góc chính là gia thế của Thạch Đạt Lang. Không có giấy tờ gì chứng minh hắn thuộc
dòng dõi kiếm sĩ danh vọng, nói gì đến liên hệ huyết thống với Tôn lãnh
chúa. Tệ hơn nữa, trong cuộc chiến Sekigahara, Thạch Đạt Lang lại đứng
về phía bên kia và dường như tổ phụ hắn trong những thế kỷ trước, đã bị
giam giữ và sát hại tại một trong nhiều căn thạch thất của lâu đài. Tuy
nhiên, cả ba đều đồng ý là với sự can thiệp và bảo lãnh của Trúc Mộ
tướng công cùng Đại Quán thiền sư, vấn đề có thể gi