
lời, quay ngoắt trở lại mở cửa hông bước ra vườn rồi men theo những bậc đá ở hàng hiên dốc mé tả mà vào phòng.
Cửa vừa mở, Cát Tỉnh quay nhìn Thạch Đạt Lang không giấu vẻ ngạc nhiên
trên nét mặt, nhưng ở góc phòng, thiền sư Đại Quán chỉ ngẩng đầu mỉm
cười. Thạch Đạt Lang đến quỳ trước mặt Đại Quán, dáng điệu vô cùng tôn
kính !
- Thầy Đại Quán !
Nhà sư phong thái vẫn như xưa, tuy diện mạo có già hơn đôi chút. Vẫn bộ
áo chùng nâu cũ, vẫn cái dáng điệu ung dung gần như buông thả, nhưng lần này ở đây không thấy ông đeo tràng hạt. Hình thức bề ngoài hình như
không còn để cho thiền sư quan tâm nữa.
- Lâu lắm chẳng gặp con, tuy vậy ta vẫn để ý theo dõi hành tung của con cho đến khi con rời khỏi xưởng mài kiếm của Vương Chính.
Lời nói thân tình mà nặng ý quan hoài khiên Thạch Đạt Lang cảm động.
- Lần cuối cùng ta gặp con ở đâu nhỉ ? À phải, ở Kyoto, có đúng không ?
Sau khi mẫu thân ta mất, ta ở lại cư tang một năm rồi lại lên đường
phiêu du, thăm nhiều đền miếu và các thân hữu, đọc các kinh sách lạ, đàm đạo với chư tăng, cũng thu thập được nhiều điều bổ ích lắm.
- Thế thầy mới đến Tân đô này thôi ư ?
- Ừ, ta được biết chủ nhân đây trong một dịp tình cờ qua sự giới thiệu
của một thân hữu chung. Thế còn ngươi ? Trong thời gian đó làm những gì ?
- Theo dõi hành động của con, chắc thầy đã rõ.
Nhìn Thạch Đạt Lang, Đại Quán dường như muốn so sánh hắn bây giờ với gã
nông dân Thạch Kinh Tử khi trước. Ông mỉm cười, chậm rãi:
- Sao còn quan tâm đến những việc đó ? Một người ở tuổi con mà đã nổi
danh như thế chẳng phải chuyện thường, nhưng chừng nào con không làm
điều gì ô nhục, xấu xa thì có gì đáng trách ? Điều ta muốn biết là sự
luyện tập của con đến đâu rồi ?
Thạch Đạt Lang trình bày sơ lược những học hỏi và thành quả của mình trong những năm qua cho Đại Quán nghe rồi kết luận:
- Con sợ còn dại dột, sự suy tư chưa được chín chắn, hành động đôi khi
còn khinh suất. Càng đi, con thấy đường càng dài và có cảm tưởng đang
trèo một con dốc vô tận mà chưa trông thấy đâu là đỉnh núi.
Đại Quán gật gù xem chừng thỏa mãn về những nhận định thành thật của người thanh niên ông bảo trợ.
- Phải như thế, con ạ ! Nếu một người ở lứa tuổi ba mươi mà tự cho mình
đã đến bờ giác thì sự tu luyện coi như chấm dứt rồi. Gã sẽ luẩn quẩn mãi trong mê muội. Ta thật bối rối nếu có người coi ta như một vị bồ tát
hay sùng mộ ta như một vị Phật sống. Hãy tự cho là may mắn khi thấy
người đời không đánh giá con quá cao, con ạ !
Thạch Đạt Lang cúi đầu cung kính:
- Con xin bái lĩnh lời thầy dạy.
Vừa khi ấy, một người trạc trung niên, dáng đường bệ, tay còn cầm trường kiếm để nguyên trong bao, bước vào. Thấy Thạch Đạt Lang ngồi bên Đại
Quán, người ấy khựng lại, đưa mắt nhìn chủ nhân rồi lại nhìn nhà sư,
đoạn phá lên cười ha hả:
- Phải chăng đây là Thạch Điền đại hiệp ?
Thạch Đạt Lang cúi chào:
- Chính phải. Tiểu nhân là Thạch Điền Đạt Lang, sinh quán tại Miyamoto. Dám hỏi phải chăng ngài là Trúc Mộ đại nhân ?
- Đúng. Ta chờ đại hiệp trong phòng tối từ lâu không thấy đi qua. Giờ đã ở đây rồi!
Khá thật !
Hà Chu Cát Tỉnh quay sang Thạch Đạt Lang, giải thích:
- Đó là mẹo nhỏ do chính lão phu chủ trương, đại hiệp sớm phát kiến làm cho lão thật bẽn lẽn.
Đại Quán cười:
- Đó là cuộc đùa chơi, có gì mà chủ nhân phải để ý !
Nhưng Cát Tỉnh vẫn trần tình:
- Lão phu không ngờ Thạch đại hiệp lại linh mẫn đến thế ! Nghe nhiều lời đồn đại về đại hiệp, lão phu muốn chính mắt được chứng kiến võ công của đại hiệp nên đã bày ra trò này và mời Trúc Mộ tướng công giúp một tay.
Khi đại hiệp dừng lại ở hành lang, chính ngài là người đứng trong phòng
tối sẵn sàng rút kiếm để thử xem phản ứng của đại hiệp đến mức nào.
Thạch Đạt Lang cười:
- Ra thế đấy !
- Nhưng đại hiệp lại đi cửa khác, vòng ra ngoài vườn mà vào phòng này.
Dám hỏi lý do gì khiến đại hiệp phát giác ra có bẫy mà tránh ?
Thạch Đạt Lang không trả lời. Thực ra hắn cũng chẳng biết trả lời ra sao nữa. Đại Quán bèn đỡ lời:
- Chỉ là khác biệt về phản ứng.
- Thế là thế nào ? Xin đại sư nói rõ thêm.
- Phản ứng của một chiến thuật gia khác với phản ứng của một kiếm sĩ.
Phản ứng chiến thuật căn cứ trên tri thức, do suy luận mà có. Phản ứng
của kiếm sĩ do trực giác.
Khi tôn huynh dẫn hắn theo đường hành lang tới căn phòng này, tôn huynh
suy luận đương nhiên hắn sẽ đi theo. Nhưng không ! Đến một chỗ nào đó,
trực giác linh mẫn của hắn chắc đã cảm thấy có điều khác lạ nên hắn lập
tức phản ứng. Và vì điều khác lạ đó không xác định được ngay, hắn đã
chọn cách an toàn nhất để tự vệ:
tránh né.
Phản ứng ấy rất thông thường của người cầm kiếm và hoàn toàn theo bản năng.
- Phải chăng cũng giống như trường hợp đốn ngộ trong thiền phái ?
Đại Quán gật đầu:
- Ở một phương diện nào đó, nếu tuệ căn mẫn nhuệ thì cũng có thể so sánh như thế !
- Đại sư đã bao giờ gặp trường hợp như vậy trong lúc nghiên cứu thiền học chưa ?
Đại Quán mỉm cười:
- Bần tăng không biết, vì giá có gặp cũng không ý thức được.
Trúc Mộ xen vào:
- Dù sao, bài học đáng để chúng ta suy gẫm. Một kiếm sĩ nào