ác cơ quan mà tôi làm việc luôn
luôn cấm tôi về Việt-Nam, cũng như vùng biên giới Hoa-Việt. Năm 1990,
sau khi Tổng-thống Pháp François Mittérand sang thăm Việt-Nam, và ký một số hiệp ước, thì hai cơ quan mà tôi làm việc là viện Pháp-á (Institut
Franco-Asiatique viết tắt là IFA) và Liên-hiệp các viện bào chế dược
phẩm (Coopérative Européenne Pharmaçeutique viết tắt là CEP) đổi hẳn
thái độ. Cả hai nơi luôn cử tôi đi trong phái đoàn với chức vụ cố vấn,
làm việc tại Việt-Nam.
Trong những lần về như vậy, tôi lại dẫn các bạn Pháp thăm di tích lịch
sử Việt-Nam. Di tích về An Dương vương là một. Tôi đã tìm ra được hai
đền chính thờ ngài và các anh hùng thời Âu-lạc.
Đền thứ nhất tại xã Cổ-loa. Nói ra thực buồn, tôi nghiên cứu tất cả các
tours mà những công ty du lịch lớn như Việt-Nam tourist, Sai-gòn tourist quảng cáo bán ở hải ngoại, dĩ chí những tours ngắn do những công ty nhỏ trong nước cũng... giống nhau: Không có tours nào giới thiệu Cổ-loa cả. Ngay một số tài xế của các công ty cho thuê xe, khi nói đến Cổ-loa, họ
cũng phải hỏi thăm đường. Công ty duy nhất, là công ty Nghi-tàm, có thể
cung cấp cho tôi một tài xế, tuy lớn tuổi, nhưng anh ấy biết đường đi
tất cả những di tích. Tên anh là Toản. Sau gần một tháng đi thăm, lúc từ biệt, chúng tôi tặng anh một số tiền ngang với số tiền mà chúng tôi trả cho công ty. Anh ngạc nhiên vô cùng. Trong tất cả các di tích mà tôi
dẫn người Pháp đi thăm, họ thích nhất Cổ-loa.
Tại Cổ-loa, có miếu thờ An Dương vương. Miếu được xếp hạng Di tích lịch
sử văn hóa, nên được giữ gìn khá cẩn thận. Miếu dựng trên kinh đô cũ của Âu-lạc ở Phong-khê, nay là xã Cổ-loa, huyện Đông-anh, Hà-nội. Gọi là
miếu, chứ thực sự đây là khu đền đài khá lớn. Khu này chia làm hai: Một
là những nhà bia, tiếc rằng bia bị đục mất nhiều chữ, thành ra tôi không thể chép lại đầy đủ. Hai là đền thờ. Gian nhà được gọi là Ngự-triều di
quy rất đẹp, rất rộng. Phía sau có tượng thờ Mỵ Châu. Tượng chỉ có thân
mà không có đầu, vì đầu bị... An-Dương vương chặt mất. Trên tường treo
bức hoành phi có viết bài thơ của Chu Mạnh Trinh, chữ còn đầy đủ:
Lang quân tình trọng, phụ ân thâm,
Bất bạch kỳ oan trực đáo kim,
Cơ trảo vô linh, qui diệc khứ,
Minh châu hữu lệ bạng do trầm.
Hoang bi cổ mộc, thiên niên quốc,
Bích hải giao thiên nhất phiến tâm,
Tịch mịch tiến triều cung ngoại miếu,
Đỗ quyên đề đoạn, nguyệt âm âm.
Dưới đây là bản dịch của Nguyễn Tường Phượng:
Tình chàng dù trọng, nghĩa cha sâu,
Ôm ấp oan kia đến tận đâu?
Nỏ mất móng thiêng, rùa lẩn bóng,
Trai chìm đáy nước lệ hoen châu.
Bia tàn cây cỗi, ngàn thu hận,
Bể biếc trời xa một cánh sầu,
Cung miếu triều xưa nay vắng ngắt,
Trăng mờ khắc khoải cuốc kêu thâu.
Trong sân miếu có cây đa, do vua Ngô trồng, trải hơn nghìn năm cây đa
vẫn còn đứng như chứng nhân lịch sử. Tương truyền khi trồng cây đa, Ngô
vương có lời nguyền rằng:
“Sông kia nước có thể cạn, rừng kia có thể hết cây, nhưng cây đa này sẽ sống mãi với linh khí của vua An-dương”.
Thế nhưng trong đêm giao thừa tết Canh Thìn (2000), cây đa bị cháy.
Nguyên do: Vì tuổi cao, có nhiều chỗ mục. Ngày tết người ta đốt vàng ở
gốc cây. Cây bị cháy. Sau đó tuy lửa được dập tắt, song cây bị phỏng
nhiều chỗ rồi... chết. Tháng 8 năm 2001, tôi trở lại thăm cố đô Cổ-loa,
thì cây không còn nữa.
Tài liệu chữ Hán:
ĐVSKTT, Ngoại-kỷ.
Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí.
ĐNNTC.
Nam Việt thần kỳ hội lục.
Thoát-hiên minh sử thi tập.
Chính pháp điện thạch bi. Bất tri hà nhật xuất lao lung
(Phan Chu Trinh, Chí thành thông thánh thi)
Nghĩa là:
Không biết bao giờ đất nước thóat ra khỏi cảnh lao tù.
Từ hơn một tháng nay, trai tráng trang Cổ-đại phải bỏ hết công việc đồng án để lo sửa đường, cắt cỏ, đốn những cành cây chỉa ra đường và làm một đài cao giữa thôn. Lệnh của quan Huyện-úy ban ra rằng: Trai tráng trong thôn từ 15 tới 50 tuổi đều phải có mặt tại chỗ từ giờ Mão, để làm xâu.
Lệnh còn cắt đặt rõ, người nào phải mang dao mác, người nào phải mang
cuốc, mang móng, mang xẻng. Sau hơn một tháng, con đường cái quan dài
hơn chục dặm đã được sửa chữa bằng phẳng. Một ngọn cỏ cũng không còn,
một cành cây chỉa ra đường cũng chẳng có. Hai cây cầu bắt qua suối được
sửa lại. Hôm nay người ta bắt đầu làm hai cái cổng lớn bằng tre, một cái ở đường cái quan rẽ vào thôn và một cái ở ngay kỳ đài.
Quan Huyện-uý lại ra lệnh: Ngày mai tất cả mọi người trong xã phải mặc
quần áo chỉnh tề, tụ tập ở chợ, để đón quan trên. Hỏi quan trên là ai
thì không được trả lời. Dân làng thắc mắc: Quan nào mà oai đến thế?
Nhưng sáng nay thì người ta hiểu. Trên cổng chào, hai tấm vải đỏ viết hàng chữ vàng lóng lánh:
Cung nghinh Tô thái thú giá lâm
Nghĩa là kính mừng ngài Thái-thú họ Tô giá lâm.
Sang giờ Thìn, mặt trời đã lên cao, nắng mùa hè chói chang, già trẻ lớn
bé mồ hôi nhễ nhãi, có người đã phải ngồi xuống để nghỉ chân. Bỗng một
hồi tù và vọng lại, rồi tiếp theo tiếng trống thúc, mọi người đều đứng
dậy nhìn về xa, chỉ thấy mờ mờ một đoàn người ngựa đi đến, gươm dáo sáng chưng.
Đầu tiên, hai con ngựa ô cao lớ