g được phò mã Sơn Tinh thì ông đem chép vào 40 cái thẻ đồng to, nhưng ngắn. Cuối cùng ông chép cách chế nỏ thần của
Cao-cảnh hầu vào 80 cái thẻ đồng nhỏ và ngắn. Sau đó ông sai hàn hai đầu gậy lại. Khi ông tự vận, đệ tử của ông là Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung
học được nội công Dương cương, sau lập ra phái Cửu-chân. Ông đem nội
công âm nhu dạy cho con ông là Lý Ðức, lập ra phái Long-biên. Vì vậy nội công Dương cương của phái Cửu-chân với phái Long-biên có nhiều phần
giống nhau từ nguyên thủy. Trải qua 200 năm, các đời sau thêm thắt, sửa
đổi đi thành ra nội công hai phái Cửu-chân, Tản-viên càng khác nhau
nhiều. Những điều ngoắt ngoéo như vậy, làm sao Ðào Kỳ hiểu được.
Ðào Kỳ ngắm một đống thẻ đồng ngẫm nghĩ:
– Ai là người đã khắc các thẻ đồng này ta không cần biết. Nhưng trong có đủ võ công của Cửu-chân, Tản-viên và Long-biên ta cứ tập hết đã rồi sau này gặp Nguyễn Phan ta sẽ nhờ ông giải thích cho. Còn chưởng pháp trong 40 cái thẻ đồng lớn, dài này là chưởng gì? Trước đây cha ta bảo rằng
muốn luyện tập võ công gì chăng nữa thì phải tập nội công trước. Như hôm trước ta sử dụng một chưởng tầm thường, nhưng nội công cao, đánh Hoàng
Ðức bị thương nặng. Những võ công này, ta phải dấu cho cẩn thận, nếu
không thì bị lấy mất. Ta đang ở Thái-hà trang, lúc nào Lê Ðạo Sinh cũng
rình mò ta, vậy ta phải dấu chỗ khác mới được.
Nó chợt nhớ trong trang Thái-hà có đền thờ Hùng vương:
– Bây giờ tập nội công trước, thì chỉ mang theo trong người những thẻ
này thôi. Còn bao nhiêu ta cho vào cây côn này, chôn ở phía sau đền.
Thường thường, ngày nào ta cũng đi lễ vua Hùng, thì ta có ra đó tập võ,
hay lấy thẻ đồng cũng không ai nghi ngờ. Hà... ta cầm côn ở đền thờ
Cao-cảnh hầu biểu diễn võ, rồi bị Song-quái bắt đi, mang cả côn theo.
Hoàng Ðức bắt ta cũng bắt cả côn, Lê Ðạo Sinh đem ta về trang cũng tuyệt không chú ý đến cây côn... Họ đâu có ngờ trong côn lại cất dấu những võ công kỳ diệu này?
Từ hôm xảy ra vụ nó đánh Hoàng Ðức bị thương đến giờ, trong trang canh
gác cực kỳ nghiêm mật. Nó lén nghe Lê Ðạo Sinh với Hoàng Ðức bàn với
nhau rằng có lẽ một cao thủ nào đó của phái Cửu-chân hay Long-biên đến
thám thính Thái-hà trang.
Trong khu vực trại tù, tối đến đều có người canh gác, bên ngoài bên
trong xích hàng chục con chó, nên nó không dám mang búa vào cứu Ðặng Thi Kế. Nó xuống hầm lấy hết ngọc ngà, châu báu, kiếm búa đem chôn ở đền
thờ Hùng vương. Vì nó nghĩ, biết đâu tung tích của nó bị khám phá, rồi
Lê Ðạo Sinh cho người xuống hầm dò xét, tìm ra những thứ kia thì sao.
Nó tiếp tục luyện tập nội công trong các thẻ đồng. Cho đến một đêm kia
nó luyện đến tấm thẻ cuối cùng. Từ đấy cứ mỗi đêm nó luyện lại từ đầu
đến cuối. Trong thẻ ghi rõ: Nếu cứ tiếp tục luyện mỗi ngày hai giờ, thì
trong vòng một năm được một thành. Ðến trình độ một thành thì tay không
đánh chết hổ trên rừng. Nhưng trước đó nó đã luyện tập hàng chục năm
Dương cương và hơn một năm Âm nhu với Nguyễn Phan. Bây giờ nó luyện cả
hai thì đã được hai thành rồi. Nhưng nó biết hợp Âm Dương làm một nên
công lực lên tới bốn thành. Nếu một ngày kia nó luyện được muời thành
thì nó sẽ là hai người khác nhau, mạnh không biết đến đâu mà kể. Nó ra
đền thờ Hùng vương đào 40 thẻ lớn, dài lên luyện chưởng pháp trong đó.
Nó thấy bốn tấm thẻ đầu dạy tổng quát cách vận khí, thấy trong đó dạy
vận khí cả Âm lẫn Dương. Còn 36 thẻ còn lại một mặt dạy luyện chưởng
Dương cương, một mặt luyện chưởng Âm nhu. Hai chưởng khắc chế nhau. Nó
không biết luyện chưởng nào tiếp.
Ðệ tứ Thái-bảo Sài-sơn đã nói với nó rằng Phục ngưu chưởng có 36 chiêu.
Gốc do Sơn Tinh chế ra có 36 chiêu Dương cương. Cần phải tập nội công
Dương cương mới sử dụng được. Sau đó Vạn-tín hầu thắng Sơn Tinh nhưng
vẫn tiếc chưởng pháp kỳ diệu, mới nhân đó chế ra 36 chiêu Âm nhu khắc
chế lại Dương cương. Thành ra Phục ngưu chưởng mỗi chiêu có một Âm một
Dương. Phục ngưu thần chưởng nếu sử dụng từng chiêu một cũng đã mạnh
không tưởng được, nhưng địch thủ có thời giờ vận chưởng chống lại được.
Nếu biết sử dụng cả 36 chưởng thì chưởng nọ nối với chưởng kia thành một dây liên miên bất tuyệt, đối thủ không thể nào chống lại được. Vạn-tín
hầu có thể sử dụng một dây Dương hoặc Âm, mà không thể tự ý đang Âm đổi
thành Dương, hoặc đang Dương đổi thành Âm. Có lẽ chưởng pháp này là Phục ngưu thần chưởng, nên mới có chiêu Âm Dương đối nghịch nhau. Không biết ta nên tập loại nào trước?
Gốc võ công của Ðào Kỳ là Cửu-chân thuộc Dương cương nên nó quyết định
luyện các chiêu Dương trước. Trước hết nó đọc qua một lượt thì nghiệm
thấy rằng có thể tập riêng rẽ từng chiêu mà không cần theo thứ tự. Tính
nó ưa những sự kỳ ngộ ngẫu nhiên, nên rút một thẻ tập đầu tiên thấy mang tên Ác ngưu nan độ. Chiêu này để chống lại một con trâu hung dữ, đứng
giữa đường không cho người đi qua. Chiêu thức bắt khí tụ vào đan điền,
rồi chuyển ra tay phải. Tay phải từ phía sau chuyển qua hông đẩy thẳng
về trước. Còn tay trái đánh xéo từ trên đỉnh đầu trái trở xuống. Kình
lực hai tay một đánh thẳng vào đầu đối thủ, một đánh