
ì Hồng hay hường là tên gọi chung cho các loài thực
vật có hoa dạng cây bụi hoặc cây leo lâu năm thuộc chi Rosa, họ
rosaceae, với hơn 100 loài với màu hoa đa dạng, phân bố từ miền ôn đới
đến nhiệt đới. Các loài này nổi tiếng vì hoa đẹp nên thường gọi là hoa
hồng. Đa phần có nguồn gốc bản địa châu Á, số ít còn lại có nguồn gốc
bản địa châu Âu, Bắc Mỹ, và Tây Bắc Phi. Các loài bản địa,giống cây
trồng và cây lai ghép đều được trồng làm cảnh và lấy hương thơm. Đôi khi các loài này được gọi làtường vi. Về hình thái, Đây là các cây bụi mọc
đứng hoặc mọc leo, thân và cành có gai. Lá kép lông chim lẻ, lá chét
khía răng, có lá kèm. Hoa thơm, màu sắc đa dạng: hồng, trắng, vàng hay
đỏ... Hoa thường có nhiều cánh do nhị đực biến thành. Đế hoa hình chén.
Qủa bế, tụ nhau trong đế hoa dày lên thành quả. Ở Nhật Bản, trong các
cuộc triển lãm, hoa hồng bao giờ cũng chiếm ngôi vị "Nữ hoàng của các
loài hoa". Ở Bungari, đất nước được mệnh danh là "Xứ sở của hoa hồng" vì trồng nhiều hoa hồng nhất thế giới, người ta có câu châm ngôn "Quí như
tinh dầu hoa hồng" để đánh giá một vật nào đó có giá trị rất lớn. Bởi vì phải cần đến 30 đóa hoa hồng người ta mới cất được một giọt tinh dầu
(giá trị hơn cả vàng ròng). Người Hy Lạp cổ đại cho rằng hoa hồng là
tặng phẩm quí báu mà nữ thần Kibela đã gởi đến cho loài người để tôn
vinh những tình cảm cao đẹp, từ đó hoa hồng được mang tên "Quà tặng của
thiên thần".
Chính nhờ vào mùi hương dịu dàng, thanh thoát,
sang trọng và hình dáng tao nhã, hài hòa, yêu kiều đẹp đẽ một cách tự
nhiên mà hoa hồng được coi là vẻ đẹp của người mẹ, của nữ giới nói
chung.
Tinh dầu hoa hồng là một trong những tinh dầu thơm nhất
và nhiều công dụng nhất. Các nhà khoa học phân tích trong hoa hồng có
tinh dầu với tỉ lệ 0,013-0,15% mà thành phần chủ yếu gổm geraniol
12,78%, 1-citronellol 23,89%, phenethyl alcol 16,36%, stearoptenes
22,1%.
Theo y học cổ truyền, hoa hồng có vị ngọt, tính ấm,tác
dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, tiêu sưng. Người Trung Quốc và
nhiều nước châu Á đã dùng hoa hồng để chữa bệnh từ rất lâu đời.
Loại hoa hồng đỏ (mai khôi hoa) dùng làm huyết mạch lưu thông, chữa
kinh nguyệt không đều, đau ở vùng bụng dưới, vết thương sưng tấy, đinh
nhọt và viêm mủ da, bệnh bạch hầu.
Loại hoa hồng trắng (hồng
bạch) chứa nhiều tanin, đường, chất nhầy, tinh dầu, dùng chữa ho trẻ em
rất công hiệu ; ngoài ra còn làm nhuận trường.
Tinh dầu hoa hồng là chất an thần,làm dịu các chứng bệnh về tiêu hóa,
trị đau nhức, căng thẳng thần kinh, suy nhược, mất ngủ, rối loạn kinh
nguyệt. Ngoài tác dụng kích thích tuần hoàn máu, nó còn là chất sát
khuẩn nhẹ, ít độc nhất trong các loại tinh dầu nên có thể dùng cho trẻ
nhỏ.
Nước hoa hồng có tác dụng như một loại sữa làm mát dịu và
sạch sẽ làn da, có tính sát khuẩn nhẹ và làm hưng phấn tinh thần. Các
nhà nghiên cứu ở khoa Dược, trường Đại học UMTS Malaysia cho biết có thể phòng ngừa ung thư và làm hạ huyết áp bằng nước ép của hoa hồng, vì
trong cánh hoa có chứa một chất tỗng hợp đặc biệt. Người ta đang nghiên
cứu chế biến loại trà và nước giải khát từ hoa hồng để điều trị bệnh cao huyết áp.
Ở Nhật Bản, hoa hồng được chế biến thành mỹ phẩm bảo vệ sắc đẹp của phụ nữ. Người ta pha trà bằng cánh hoa, lấy nước để rửa
mặt vừa tẩy sạch da vừa bảo vệ da rất tốt. Hoặc ngâm cánh hoa vào dấm
chua để có một dung dịch khử mùi hôi và sát trùng. Hoặc sắc thuốc từ hoa hồng để làm nước rửa mặt và thuốc bỗ giàu vitamin A để làm trắng da,
dưỡng da.
Hoa hồng phơi khô trong im (âm can), tán bột dùng để
cầm máu, chữa băng huyết, tiêu chảy (người có thai không nên dùng) .
Ngày dùng 15-20g bột, hoặc phối hợp với gừng, trà...
Y học cổ
truyền Ấn Độ cho rằng nước sắc hoa hồng hoặc tinh dầu hoa hồng hòa với
nước (1 giọt hoa hồng 10 giọt nước) dùng để xoa bóp hoặc cho vào bồn
nước để tắm sẽ làm an thần, chữa bệnh ngoài da và làm phấn chấn tinh
thần, lạc quan yêu đời. Một số bài thuốc từ hoa hồng :
Chữa ho
trẻ em : Lấy cánh hoa hồng trắng còn tươi, một quả quất chín (bỏ cuống), 1/2 muỗng cà phê đường hoặc mật ong. Cho tất cả vào chén nhỏ, hấp cơm
hoặc chưng cách thủy. Đem ra nghiền nát, trộn đều rồi gạn lấy nước cho
trẻ uống nhiều lần trong ngày.
Làm nhuận trường, chống táo bón : Hoa hồng trắng còn tươi hoặc khô 20-40g, *** với 100ml nước sôi trong
15-30 phút, thêm 1/2 muỗng cà phê mật ong hoặc đường, uống 2-3 lần trước bữa ăn.
Cầm máu, chữa băng huyết : Lấy hoa hồng đỏ mới nở
20-30g ngâm với 1lít nước sôi khoảng 30 phút, lọc lấy nước hòa với 50g
đường khuấy đều. Mỗi lần uống 200ml, uống cho đến khi cầm mới thôi.
Chữa giộp lưỡi, loét lợi, lở miệng: Ngâm bột hoa hồng đỏ 5g với 25ml
rượu trắng trong 24 giờ. Đun nhỏ lửa cho rượu bay hơi, đến khi còn sền
sệt thì cho thêm 30g mật ong vào đun nhẹ, khuấy đều rồi để nguội. Dùng
tăm bông sạch thấm thuốc bôi vào chỗ đau, ngày 2-4 lần.
Dung
dịch mật - hoa hồng này pha với nước sạch, thêm vài hạt muối làm thuốc
súc miệng chữa viêm họ