
r/>- Ủa, mày gặp ba má mày rồi sao?
- Gặp rồi!
Thằng Cò cũng cười theo tôi. Tôi chợt hiểu ngay vì sao lúc nãy nó cứ
giục tôi đi về gấp. Dì Tư Béo phàn nàn cuộc sống khó khăn, giặc giã đánh lung tung làm cho bà ta không ở yên nơi yên chỗ làm ăn buôn bán. Bà ta
còn nấn ná đứng lại một lúc nữa, đến khi đã biết chắc rằng không thể mua được cái mật con kỳ đà, bà ta mới chịu xuống thuyền chèo đi. Lần gặp gỡ đầu tiên và buổi chia tay cuối cùng của tôi với dì Tư Béo đều bắt đầu
và kết thúc bằng câu "ngã giá" của bà ta. Nhưng dẫu sao cũng có lúc tôi
đã chịu hàm ân bà ta trong những ngày đầu lưu lạc, nên lòng không khỏi
có đôi chút ngậm ngùi. Chúng tôi mua dầu lửa xong, lo muộn, bèn lội tắt
qua rừng mà không về theo lối cũ. Hai đứa xắn quần lên đến bẹn, vừa đi
vừa khảo chuyện về con kỳ đà khủng khiếp. Bỗng dưng thằng Cò tặc lưỡi,
kêu lên:
- Phải chi hồi sáng mình dắt con Luốc theo, An nhỉ!
- Ờ!
- Mày liệu con Luốc có chống cự nổi với con kỳ đà ấy không?
- Biết đâu được!
- Sao lại biết đâu được? Cọp nó còn không sợ mà!
- Ờ!
- Tao chắc chỉ còn lại mỗi con này và nó đã bị đâm chết, chứ ở đây không còn con nào nữa đâu!
- Con gì cũng sống có đôi. Biết đâu lại không còn một con đang chờ mình trong này...
- Đừng có nói bậy!
Thằng Cò bỗng quát tôi, rồi nó vênh vênh bộ mặt làm ra vẻ cứng cỏi,
vung vẩy chai dầu lửa trong tay, lội bươn tới trước đi một mình. Rừng
đước mênh mông. Cây đước mọc dài tăm tắp, cây nào cây nấy thẳng như cây
nến khổng lồ. Rễ cao từ ba bốn thước tua tủa giương ra chung quanh như
những cánh tay từ trong thân cây thò ra bám đất. Mặt đất lầy nhẵn thín,
không một cọng cỏ mọc. Chỉ có vài chiếc lá rụng mà nước triều chưa lên
kịp để cuốn đi, và bóng nắng chiếu xuyên qua những tầng lá dày xanh
biếc, soi lỗ chỗ trên lượt bùn mượt mà vàng song li ti vết chân của
những con dã tràng bé tẹo. Những buổi triều lên, nước chỉ ngập quá gối
thôi, chúng tôi năm bảy đứa rủ nhau đi bắt vọp, bắt cua, trên đường về
thường đuổi nhau chui qua những "cánh tay đước", móc bùn ném nhau, té
nước và reo đùa ầm ĩ, những lúc đang vui vẻ chung quanh có đông bạn bè
ấy thì tôi có cảm giác như rừng đước đang xôn xao từ dưới biển mọc lên.
Nhưng hôm nào đi một mình, chung quanh vắng lặng, nhìn làn nước đục ngầu xô nhau tràn qua cội đước xù xì, thì tôi lại thấy như khu rừng cứ lặng
lẽ chìm dần xuống biển, và một nỗi lo sợ không đâu, bất thần ập tới,
khiến đôi lúc tôi phải hét to lên để tự trấn tĩnh và ba chân bốn cẳng
hộc tốc chạy về hướng một ngôi lều nào đó, mà tôi biết là gần nhất.
Thằng Cò vẫn mải miết ộp oạp lội bùn đi trước tôi. Giữa vắng lặng
xanh nhờ của rừng đước âm u, từng bước di động của chúng tôi mồn một
vọng vào tĩnh mịch. Tự nhiên, tôi ngoái nhìn ra phía sau lưng và dặng
hắng một tiếng, gấp bước đuổi theo thằng Cò, nghĩ lan man rằng nguy hiểm xảy ra trong rừng hầu như bao giờ cũng đến với kẻ do dự, nhút nhát đi
sau.
Dòng sông Năm Căn hơn hai
tháng trước còn ồn ã khua động tiếng mái chèo xuôi ngược, giờ đã trở nên lạnh
ngắt, vắng teo. Thuyền bè rút mãi theo các đường kênh rạch nhỏ, chạy sâu vào
rừng cho dễ đánh du kích, tiêu hao sinh lực địch. Quán lều dỡ đi theo, lùi vào
tận trong "đớn". Lò than bỏ cho các loại dây rừng bò kín nóc. Cáo cầy
tha hồ dắt nhau làm tổ trong những đống củi gỗ đước cao như núi chất ngoài sân
lò, mọc đầy nấm dại.
- Hừ! Thằng Tây mới tới Năm Căn hơn hai tháng
thôi. Vậy mà gần chục mạng người đã hy sinh! Hai anh du kích diệt được khá
nhiều Tây và lính ngụy vừa bị nó bắt và bắn chết, buộc xác phơi ở chỗ gốc cây
mắm gần bờ sông chiều hôm qua... Bà con trong chợ đến cướp xác hai anh em về
chôn, bị nó bắt đánh một trận gần chết, bữa nay còn giam trong đồn!
Ông già thợ đốn củi nói đến đây ngập ngừng
cúi xuống cời lại đống hun. Khói cay nồng, đặc sệt từ đống hun ngùn ngụt bốc
lên, tỏa trắng khắp gian lều. Bầu không khí ẩm ướt từ trong ngôi lều của chúng
tôi như quánh lại, ngột ngạt đến tức thở. ông lại ngẩng nhìn tía nuôi tôi, nói
tiếp.
- Như vậy là hết đất rồi. Chỗ nào cũng có
thằng giặc. Chí như cái Hòn Khoai ngoài biển kia mà nó còn mò tới đóng đồn! Vậy
thì mình cũng phải làm thế nào chứ, anh Hai?
Tía nuôi tôi cứ gật gù im lặng ngồi nghe. Khi
ông già đốn củi ngừng nói, với tay rứt một dúm thuốc trong cái ống bơ nhồi vào
tẩu, tía nuôi tôi bèn cầm chai rót thêm rượu vào bát:
- Uống đi, ông bạn!
- Trời ơi, bộ anh Hai muốn tôi "mượn tửu
binh giải phá thành sầu à?"
Ông già nhếch nụ cười móm mém, đưa tay đỡ bát
rượu.
- Chẳng qua đó là cái thói tật không bỏ được
của anh em bọn mình đấy thôi! Chỉ có chúng ta mới giải phá được thành sầu này,
chứ cái thứ tửu binh... thì nó chỉ quật cho mình say mèm, nằm đó đợi giặc đến
trói cổ dắt về đồn thôi.
Đôi bạn già ngồi xếp bằng trên một tấm đăng
trải giữa nhà cùng cười lên mấy tiếng và chuyển bát rượu cho nhau mỗi người tợp
một ngụm. Tiếng cười khành khạch gượng gạo củ