
ó lên giương cánh nỏ. Tôi muốn thét lên mà lưỡi cứ líu lại. Bắn
ngay nó một phát tên, rồi nhào xuống sông lặn tuốt có phải êm không lại không
bắn, còn chờ gì nữa hỡi trời! Thằng sĩ quan Pháp vẫn chưa nổ súng. Chiếc ca nô
đã tới gần lắm rồi. Con mụ đàn bà bỗng quát lên một tiếng, vỗ tay vào lưng
thằng Pháp. Lập tức, tôi thấy cánh tay phải của thằng giặc rung rung. Tai tôi
không còn nghe tiếng súng nó bắn ra nữa, chỉ thấy làn khói trắng như sợi chỉ
phụt phụt ra từ họng súng tiểu liên. Chú Võ Tòng từ trên cành cây rơi xuống
nước. Rõ ràng là thằng giặc thoát chết vì khoảng cách giữa nó và chú Võ Tòng còn
ngoài một tầm tên. Nó đã xuống tay trước chú. Bấy giờ tôi không còn biết sợ hãi
là gì nữa, cứ nhô đầu lên coi chú Võ Tòng có mệnh hệ gì không. Chiếc ca nô chạy
qua xóa những vệt máu mà tôi chắc rằng phải đỏ cả mặt nước kia... Anh Hai ơi
anh có biết con mụ đàn bà ấy là ai không? Nó là con vợ thằng Tư Mắm ngày trước
vẫn thường lui tới bán dừa khô bí rợ trên chợ Chắc Băng đấy!
Bàn
tay lão Ba Ngù đấm xuống mặt bàn một cái rầm, cốc chén nảy bật lên. Ngọn đèn
chao qua chao lại, khiến tôi có cảm giác như bốn bức vách nhà lung lay vì một
sức chấn động dữ dội.
Tôi
đưa tay chụp cái đèn, giữ cho nó khỏi đổ. Bàn tay tôi chạm vào cái thông phong
rát bỏng. Tôi bỗng nhớ tới bàn tay ngón búp măng của con mụ đàn bà đẹp một cách
dễ sợ đã dúi vào tay tôi tờ giấy bạc năm hào nơi. quán dì Tư Béo mà tôi đã từ
chối không nhận. Chính bàn tay con mụ gián điệp ấy đập vỗ vào lưng tên giặc
Pháp, xuống lệnh khai hỏa giết chết chú Võ Tòng.
Tía
nuôi tôi ngồi lặng đi một lúc lâu. Cơm canh đã dọn ra bàn rồi mà ông vẫn ngồi
yên như một khúc gỗ. Dáng như trong đôi mắt ông đăm đăm nhìn sững vào ngọn đèn,
đang hiện lên quá khứ xa xăm của người bạn cùng khổ, giữa nơi cuối đất cùng
trời này.
Khi
nghe má nuôi tôi giục ông mời khách ăn cơm, ông mới thong thả đứng dậy. Ông
bước đến bên bức vách rút ra ba mũi tên trong chiếc ống nứa ra, để nằm ngang ở
trên đĩa, đặt lên bàn thờ. Rồi ông rót một chén rượu đặt bên cạnh ở ba mũi tên
thề, và thắp nguyên cả một bao hương cắm vào bát tro.
Tuyệt
nhiên không hề thấy có một nét biến đổi trên sắc mặt ông. Cả một hơi thở mạnh
cũng không nghe thấy...
Tội nghiệp cho hai ông già, ngày nào cũng dắt nhau
ra đi từ trời còn mờ đất, có khi đến tối mịt mới về. Má nuôi tôi lo lắm: Nhưng
bà biết rõ chồng mình hơn ai cả. Khi ông đã quyết một sự gì rồi, thì lời khuyên
can và những giọt nước mắt của bà không thể làm mềm được ý chí của ông Tốt hơn
hết là nên im lặng.
Sau
cái trận phục kích bất ngờ, chết mất tên Việt gian đưa đường lợi hại và một
thằng Pháp, bọn địch phát quang cây cối dọc ngã ba sông có hơn nghìn thước, bắn
chết ba người đàn bà đi thuyền trên sông giữa ban ngày, và yết bảng tại ngã ba
rằng: Ai nộp một cái đầu Việt Minh sẽ được lĩnh một nghìn đồng. Đồng thời chúng
cũng ra sức mua chuộc: mỗi người dân bị chúng ruồng bắt về đồn đắp phòng tuyến
trước khi được thả về đều được phát cho ba thước vải, một số thuốc ký ninh và
hai bao thuốc lá "gô-loa" cùng một cái giấy lách-xê-pát-xê.
Lão
Ba Ngù ở chơi với tía nuôi tôi hơn một tháng mới từ giã trở về Chắc Băng. Không
biết có phải lão buồn vì công lặn lội của mình chẳng đem lại một kết quả gì,
hay bởi con mụ vợ Tư Mắm đã theo thằng quan ba trở ra chợ Rạch Giá - thế là mất
đối tượng chính - nên lão nản lòng bỏ đi chăng. Tía nuôi tôi từ hôm ấy càng đâm
ra ít nói, chẳng thiết gì công việc làm ăn, cứ bỏ nhà đi luôn.
Nhiều
khi cả mấy ngày không về nhà. Có về nhà thì lại thắp hương cắm lên bàn thờ rồi
lại ngồi uống rượu khan một mình.
Một
số người ở xung quanh đồn giặc đã lục tục trở về nhà cũ. Cả ba bốn ngôi quán cà
phê, hủ tiếu cũng vừa dựng lên. Tía nuôi tôi đã mấy lần mò ra quán cà phê, lần nào
cũng trở về với bộ mặt rầu rầu khiến cho thằng Cò và tôi không dám nói chuyện
to tiếng.
Một
hôm, tía nuôi tôi cầm rựa đi đốn ở đâu về mấy gốc tre già. Ông vứt tre xuống
sân, bảo thằng Cò đi mua rượu. Người ông thay đổi hẳn, chân tay nhanh nhẹn, vui
vẻ hoạt bát lên như ngày trước. ông chẻ tre, nắn nót chuốt từng mũi tên, ban
ngày phơi nắng, ban đêm hong lửa ông châm từng mũi tên lên tay, cân xem có vừa
sức nặng và bề dài của ba mũi tên tẩm độc của ông không...
Ba
hôm liền, ngày nào cũng ngậm tẩu thuốc lá, cầm nỏ mang tên, dắt con Luốc di vào
rừng.
"Chẳng
thấy bắt được con chồn con cáo gì, mà ngày nào cũng lặn lội cho mệt!" Má
nuôi tôi làu bàu nói như vậy.
Tía
nuôi tôi chỉ cười. Nụ cười hồn hậu trên gương mặt khoáng đạt mà tôi thấy ở ông
lần đầu tiên nơi xóm chợ Ngã Ba Kênh, lại trở về với ông.
Dứt
khoát không phải tía nuôi tôi đi săn con chồn con cáo gì đâu. Có thể là ông đi
tập bắn nỏ đấy thôi! Mà một người thông thạo nghề rừng nghề biển như ông, thì
việc sử dụng cánh nỏ chỉ như một trò chơi, ông cần gì phải tập. Vậy thì tía
nuôi tôi đi đâu? Làm gì?
Ý
nghĩ ấy cứ nung nấu trong đầu tôi, càng thôi thúc sự tò mò dậy lên trong tôi
rất mãnh l