
hân một mình. Thôi thì cũng đành!
Nếu mai kia mốt nọ... con có dịp về gần Thới Bình, cứ hỏi thăm tên dì,
ắt dì cháu ta còn có cơ hội gặp nhau...
Bà ta sụt sịt, giúi vào tay tôi một đòn bánh tét, nặng nề bước xuống
chiếc thuyền vừa thoát khỏi trận hỏa tai, rồi nhổ sào tách bến.
Trời sâm sẩm tối. Tôi đứng dưới gốc cây gáo cổ thụ, lổm nhổm những
mảnh lu mảnh vại vỡ, bên đám tro tàn còn phảng phất mùi rượu cháy chua
tanh Tôi đứng im lặng một mình như vậy, nhìn theo vạt áo trắng của dì Tư đang chèo khuất dần trong bóng tối của mặt nước dòng kênh. Lát lâu sau, tôi bỗng cảm thấy rưng rưng một nỗi buồn lạ lùng không sao xua đi được, một thứ trống rỗng ùa vào tâm hồn, khiến tôi gần như sợ hãi. Tôi chạy
theo gọi: " Dì Tư ơi? Dì Tư Chờ cháu với... "
Tôi vấp mấy cái trong bóng tối, suýt ngã xuống nước.
Màn đêm lặng lẽ buông trùm xuống những ngọn sóng xôn xao trên mặt nhóc cuồn cuộn, không biết chảy về đâu.
Dì Tư Béo đã đi rồi. Cả bác tài công già
trong đoàn thuyền vận tải quân lương và anh học sinh cô-le đã cho tôi chiếc áo
vét-tông, hiện giờ cũng không biết ở đâu.
Phải chăng những người mà số mệnh đã run rủi
cho tôi gặp họ trên đường giạt trôi vì khói lửa đều vội vàng tất bật buông rơi
tôi lại, bỏ tôi trơ trọi giữa đường? Mà tôi chỉ là thằng bé từ lúc còn lẫm chẫm
biết đi cho đến mấy tháng trước đây chưa hề rời khỏi thành phố mình sinh
trưởng. Hay đó là thử thách của cuộc đời đối với tôi chăng?
Anh Sáu tuyên truyền bảo tôi về ở với anh.
Ban ngày tôi theo anh ra quét dọn phòng thông tin, tô lại những khẩu hiệu cũ. Ban
đêm thì tôi bạ đâu ngủ đấy. Có khi tôi ăn và ngủ ở nhà anh, nhưng cũng có nhiều
bữa tôi ăn cơm nơi nhà người khác, phần đông là các anh thanh niên trong chợ.
Bởi họ thấy tôi dễ bảo có chút ít chữ nghĩa, lúc nào cũng sẵn sàng giúp họ viết
những khẩu hiệu xanh đỏ lòe loẹt bằng các thứ kiểu chữgô-tích, ba-tông, broa...
Đôi khi tôi còn chịu khó ngồi nắn nót vẽ nhũng chữ hoa trên góc các vuông khăn
vải phin trắng còn thơm mùi hồ mà các chị phụ nữ Tiền phong đã cậy tôi vẽ để họ
thêu...
Tôi làm các công việc vặt này một cách say
sưa, bởi đó là thích thú của tôi, đồng thời cũng muốn phô khoe chút tài khéo
léo của mình. Anh Sáu tuyên truyền chẳng đã nhiều lần khen tôi là một thằng bé
có "hoa tay" đấy ư.
Dẫu sao thì tôi cũng vẫn buồn. Cái hy vọng
gặp lại ba má tôi và ngày mình có thể trở về thành phố quê hương cứ khuấy động
trong tôi một nỗi buồn nhớ không nguôi.
Nhưng tôi tuyệt nhiên không hề hé môi thốt ra
một lời than vãn. Thảng hoặc có một vài người nào đó lưu tâm hời hoàn cảnh gia
đình cha mẹ tôi ở đâu... thì tôi đều kiếm cớ nói tránh đi, hoặc lái câu chuyện
về một hướng khác. Tôi không muốn thấy ai bày tỏ lòng thương hại đối với mình.
Bởi vì, nói cho cùng chung đem lại một kết quả gì mà chỉ gây thêm tủi cực, xót
xa hơn cho mình sau đó.
Tôi sống lần hồi ở xóm chợ này được đâu hơn
một tháng. Ban ngày, tôi có thể tạm quên nỗi buồn nhớ ba má tôi bằng cách đi
chơi đây đó, vui đùa với bọn nhỏ và các anh thanh niên. Nhưng ban đêm, tôi
thường giật mình thức giấc thấy mình nghiêng mặt trên cánh cánh tay gối đầu ướt
đầm nước mắt..
Những con đường hàng me mượt mà lớp lá xanh
non sau những trận mưa đầu mùa, suốt ngày vi vu tiếng kêu của những bầy ong
không ngớt bay lượn trên những chùm hoa, làm rơi lả tả những cánh hoa trắng bé
xíu trên đầu bọn học trò nhỏ chúng tôi. Những con đường hàng xoài, mùa quả năm
nào cũng có những chú pô lít (Cảnh sát) áo vàng cứ trưa lại núp trong các ngõ
hẻm rình chộp lấy chiếc giàn thun (giàn ná, súng cao su) của mấy đứa trẻ trốn
bố mẹ, vờ đi học sớm để ra đó bắn quả xanh... Những đêm thứ bảy, ba tôi thường
dắt tôi ra cầu tàu lục tỉnh ngồi xem ông thả mồi, buông một sợi câu rất dài,
câu cá bông lau. Thành phố yên tĩnh dưới trăng khuya. Tiếng gió rì rào trên
những ngọn dương trồng dọc con đường đá đỏ chạy cặp theo bờ sông Tiền Giang,
lác đác một vài người đi dạo đêm đứng dưới cội cây, hoặc ngồi trên bậc cầu đá
nhìn ra dòng nước mênh mang nhấp nhánh ánh lửa thuyền câu.
Tôi đã lớn lên trong cái thành phố vừa đông
vui trù mật vừa yên tĩnh dịu dàng, tràn ngập một thứ gió sông nhiễm đầy mùi phù
sa và nắng ấm đó cho đến ngày "đằng mình" cướp chính quyền.....
Lần đầu tiên, tôi nghe ba
tôi nói hai tiếng "độc lập" với một vẻ mặt dầy xúc động:
- Bà nó ơi, độc lập rồi? Thằng An, mày có
biết không, Tổ quốc ta từ nay độc lập rồi.
Ông lắp bắp nói như vậy, mặt mũi tay chân đỏ
bừng như con gà trống. Và bằng một dáng điệu rất tự hào, ba tôi đứng nghiêng
đầu nhìn lá cờ đỏ sao vàng treo trên bục ảnh HỒ Chí Minh mà các anh thanh niên
Tiền phong vừa dựng Ở chỗ ngã ba đường, ngay trước cửa nhà tôi.
Trường học của chúng tôi đóng cổng mấy hôm
cho học sinh nghỉ ngơi đi biểu tình mừng ngày độc lập. Thành phố nhuốm màu đỏ
rực của băng, cờ, khẩu hiệu ngày đêm rầm rập bước chân của thanh niên, phụ nữ
Tiền Phong, của Cộng hòa vệ binh, của các đội dân quân cách mạng