
y. Khắp người ê ẩm, chân tay đau buốt, tôi có sức cào
đất trườn lên. Khi tôi bò ra khỏi hào thì thấy một vầng lửa đỏ rực dang
bao trùm lên ngôi tửu quán. Những lưỡi lửa khổng lồ le lên liếm trụi các cành khô trên ngọn gáo cố thụ. Tre nứa nổ lốp đốp.
Khói cuồn cuộn bốc lên, đưa tàn lửa bay chấp chới như một bầy ong đỏ
từ trong đám cháy bị mùi rượn sực nồng xua lên, bay tản mác ra xa.
Tôi lại cố sức chạy trở về ngôi quán thân thuộc đang làm mồi cho thần lửa. Trong ánh lửa dỏ rụt chiếu sáng khắp chung quanh, ở một góc sân
sau, hai ngươi đàn ông đang nắm chặt hai cánh tay dì Tư Béo lôi ra. Bà
ta giãy giụa, gào thét, hết ngã xuống lại chồm lên. Cả khối thịt của cái thân hình to lớn ấy run lẩy bẩy trông rất dễ sợ.
Tôi lách đám đông chạy sả vào. Người đầu tiên tôi nắm lấy cánh tay kêu lên là anh Sáu tuyên truyền:
- Bắt lấy vợ chồng Tư Mắm? Chúng nó là gián diệp...
Trong những người đứng chung quanh đang bó tay tuyệt vọng, buồn rầu
nhìn ngọn lửa hoành hành, tự do thiêu hủy ngôi quán, vừa nghe tôi thét
lên như thế, có người tức khắc nhảy chồm lên: "Làm sao mày biết, hở
thằng bé kia?" Có người hỏi dồn tôi: "Nhưng chúng nó đâu rồi?”
Tôi kể không ra đầu cua tai nheo gì cả, tiếng được tiếng mất. Nhưng
tôi chắc chắn rằng tôi không bỏ sót một chi tiết quan trọng nào. Người
ta nhốn nháo đi gọi các anh Cộng hòa vệ binh. ông thưởng công an xã ở
tít xóm dưới bây giờ mới vác khẩu súng bắn chim hai nòng lích kích chạy
tới:
- Chúng nó chưa đi xa đâu?
- Chia ngươi ra ba cánh, đuổi theo các ngã ba kênh?
- Đuổi cái con khỉ! Không biết chừng nào đã tới Ngã Bảy rồi!
- Này, anh em! Không được giết chết... Bắt sống chúng nó mang về đây, chặt dầu cho đồng bào xem?.
Không biết một người nào đó đứng trong đám đông ồn ào đã truyền lệnh
ra như vậy. Và ai nấy đều răm rắp tuân theo. Tôi không theo toán người
đi đuổi bắt vợ chồng Tư Mắm. Tôi đến bên dì Tư Béo, cầm lấy bàn tay lạnh ngắt của bà ta, không biết nên nói gì đây. Một câu an ủi trong lúc này, có nghĩa lý gì. Bà chủ khốn khổ của tôi đang tựa lưng vào một vò rượu - không biết tay nào chạy hộ ra đây hay tự bà ta khênh ra kịp thì chẳng
rõ - vừa thấy tôi đến, đã quay mặt đi.
- Dì Tư, Dì Tư! - Tôi lo lắng và buồn rầu gọi nho nhỏ.
- Thằng nhỏ nó về rồi đây này? - một người đàn bà nào đó ngồi cạnh bà ta kêu lên.
Dì Tư Béo vẫn quay mặt vào bóng tối. Bỗng nhiên bà ta òa lên: "Con
ơi! Con đi đâu mà bỏ dì một thân một mình... " Tôi đứng dậy cầm chiếc
khăn rằn phủi bùn đất bám đầy trên vai bà ta. Trước mắt tôi, bà ta chỉ
là một con người đáng thương và gần gũi nhất. Tự nhiên, không hiểu sao
tôi cũng quay mặt vào bóng tối. Phải rồi, một thiếu niên dù bất cứ ở
hoàn cảnh nào cũng không được tỏ ra mềm yếu trước mọi người...
Mãi đến chiếu hôm sau, vẫn không tìm ra tung tích vợ chồng Tư Mắm. Ai gặp tôi cũng hỏi, cũng bắt tôi phải kể đi kể lại có hàng trăm bận. Cả
chợ nhao lên. Người ta nhìn nhau, ai cũng có vẻ đáng nghi ngờ. Lão Ba
Ngù đứng giữa dám đông, vỗ trán kêu lên:
- Tôi biết cái thằng có đôi vai rộng bè, lưng khom khom như con giả nhơn ấy rồi!
- Lại bịa nữa? Biết thì nói, không thì thới. Chẳng ai ép đâu nhá! - một ông bạn rượu của lão Ba Ngù khịt mũi nói như vậy.
Sao lại không? Nó là thằng cùi. Mấy hôm nọ, tôi thấy nó nằm dưới xóm
Đập Đá. Đúng là nó! - Lão Ba Ngù khẳng định như vậy, và chờ cho mọi
người đưa mắt ngơ ngác đợi lão nói tiếp, lão mới e hèm mấy cái, tặc
lưỡi:
- Chà, nó không phải cùi đâu! Nó lấy thịt thối buộc giẻ rách bó vào
chân, ruồi nhặng đến bu vo ve, ai thấy cũng tởm, chẳng ai muốn đến gần.
Hóa ra có hồi nó ngồi ngay trước mặt mình mà mình tránh đi, để lúc nó
chuồn rồi mới ba chân bốn cẳng chạy đi lùng?
Không biết lão Ba Ngù nói vậy có đúng không, nhưng chẳng thấy ai bác
bẻ lại lão. CÓ điều mọi người trong chợ đều nhất trí nhận định là: "Đích thị vợ chồng Tư Mắm đã đốt quán trước khi rút lui. CÓ thể chúng đặt
trước một mồi lửa. khi đi xa rồi, quán mới bốc cháy. Dân trong chợ mắc
lo chữa cháy dù có biết cũng muộn rồi, không đuổi theo kịp chúng nó
nữa".
Quán rượu dì Tư Béo cháy sạch trong đêm đó. Nhưng còn được chiếc
thuyền mui ống, nhờ có người đẩy ra kịp mương nên chỉ cháy sém một bên
mui. Dầu sao thì hai chiếc túi bóng mỡ cài kim băng của bà chủ quán rượu cô độc cũng chưa hề hấn gì. Bà ta quyết định không cất lại quán trên
mảnh đất xúi quẩy này nữa. "Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí" mà?
Phải mau mau rời khỏi chỗ này thôi. Dì Tư Béo không ngớt than vãn như vậy, và sau cùng quả quyết bảo tôi:
- Con ơi? Đi với dì xuống Thới Bình đi!
- Cháu ở lại đây thôi. Cháu còn chờ một ngươi quen...
Tôi đáp với bà ta như vậy, chứ thật ra tôi có chờ ai đâu. May ra
trong số người qua lại xóm chợ này, tôi có thể tìm một người quen nào
chăng. Ba má tới thì chắc chắn là còn ở bên kia sông Hậu Giang, chẳng
bao giờ xuống tới chốn này.
- Số trời bắt tao phải sống một t