
ờng. Mười năm trước có ai nghĩ tới chuyện mười năm sau? Ngày hôm nay
của mười năm sau, ai có thể dự đoán được trước đời người rồi sẽ trải
tiếp qua những họa hay phúc nào?
Năm 1997, tôi vẫn làm việc
trong các doanh nghiệp sắp phá sản của Đại lục, ở phòng Tuyên truyền,
nói ra cũng đúng với chuyên môn, vì ở đại học tôi học khoa “Chính trị
quốc tế”, học cách làm thế nào để điều hòa mối quan hệ giữa nước này với nước khác, mà phòng Tuyên truyền lo phụ trách tuyên truyền, giao thiệp
với bên ngoài, xây dựng hình tượng công xưởng, mặc dù thấp hơn cấp quốc
gia rất nhiều, nhưng cũng được coi là hữu dụng. Chỉ có điều công xưởng
đã sắp phá sản, khi đó Thanh Thanh còn đang đi học, ban ngày tôi không
có việc gì làm, buổi tối cũng không có việc gì làm, đi làm toàn chơi mạt chược, tan làm cũng lại chơi mạt chược. Hoạt động này thấp hơn công
việc tôi đang làm một cấp, chỉ nghiên cứu mối quan hệ với ba người khác, làm thế nào để ăn điểm, làm thế nào để đề phòng người ta, ban đầu tôi
chơi mãi không chán, phát hiện ra đời người càng sa đọa càng vui vẻ,
nhưng sau lâu dần, tôi thấy nản. Có một khoảng thời gian, tôi mất hoàn
toàn hứng thú với mạt chược, ngày nào cũng ôm ly trà ngồi trong văn
phòng, nhìn ra tấm biển ở con đường đối diện, “Thời gian là tiền bạc,
hiệu quả là sinh mạng – Đặc khu Thâm Quyến của Tương Tây”, qua cánh cửa
sổ gỗ đã bạc màu. Câu khẩu hiệu này nếu đem so sánh với tình cảnh khi đó của tôi sẽ thành là: Thời gian của tôi không đáng một đồng, hiệu quả
của tôi là ngồi thẫn thờ, một ly trà, một điếu thuốc, một tờ báo đọc nửa ngày, cho tới khi đọc hết cả những dòng quảng cáo bé tí ở góc tờ báo
vẫn chưa hết ngày.
Trong phòng có một đồng chí lớn tuổi rất quan tâm tới tôi:
- Cậu tốt nghiệp khoa Chính trị quốc tế của một trường đại học có tiếng,
nhưng cậu không biết giao tiếp với người khác, chính trị cá nhân làm
không tốt, hây a, không được đâu, thanh niên à!
Tôi hiểu lô-gíc
của ông, “không thuộc nhà nào, có thể thuộc về thiên hạ”. Nhưng tôi
không nghĩ thế, tôi sinh ra là để làm việc lớn, họ đã lớn tuổi rồi,
không chạy được nữa, chỉ cần có miếng cơm để ăn thì cho dù uất ức lớn
đến đâu, sống chết cũng phải bám lại đây. Còn cái chính trị cá nhân ông
ấy nói chẳng qua chỉ là anh tốt, tôi tốt, mọi người tốt, bỏ bao nhiêu
tâm sức chỉ để đi họp có quyền phát biểu, được thêm một túi gạo, một
chai rượu khi chia chác, cái cảm giác phù phiếm này đối với tôi thật
không đáng gì.
Trước khi hòn ngọc phương Đông được quay về với
nước mẹ, tôi có đọc một bài thơ mang tên “Nghe tiếng gọi con tim”. Bài
thơ đã làm dấy lên trong tôi con sóng mãnh liệt muốn thoát khỏi vùng đất ức chế này, ôm mục đích “tội ác” kiếm được nhiều tiền, chạy tới Thâm
Quyến, thề rằng phải sống một cuộc sống giàu sang, náo nhiệt, giống như
người ở phố Wall, kính gọng trắng, quần áo là lượt, xách chiếc ca-táp đi ra đi vào những tòa nhà sang trọng, thao thao bất tuyệt trong hội nghị, miệng lưỡi sắc xỏa, ký một cái tên, gõ một cái búa là có thể hoàn thành cuộc mua bán trị giá hàng triệu đô-la. Cái dáng vẻ tinh anh ấy khiến
người ta thèm đến đỏ mắt, giống như hồi học đại học, tôi đã ước mơ được
tham gia vào cuộc thi hùng biện cả Châu Á.
Sau đó lăn lộn trên
thương trường nhiều năm, tôi mới ý thức rằng thương trường trong hiện
thực hoàn toàn không hoa lệ và trong sáng như tưởng tượng, khách hàng
của tôi, các ông chủ và bạn bè xung quanh tôi không có mấy người là
trông thuận mắt, những kẻ lưu manh đâu đâu cũng có, còn những kẻ miệng
lưỡi như bôi dầu chỉ làm màu cho người nghèo xem, những vụ giao dịch
quan trọng nhất đều đã được bàn trên bàn rượu, trong hộp đêm, chỉ dùng
một ngón tay hay một ánh mắt là coi như đã ký hợp đồng.
Tôi bật
cười chế giễu, đôi cánh ước mơ có thể bay rất cao, rất xa, nhưng bước
chân của hiện thực luôn luôn nặng nề, không thể nào theo kịp ước mơ,
thậm chí có lúc còn quay lưng lại với ước mơ, giống như tôi chơi Poker ở Bồ Kinh, mơ ước rằng dùng hai mươi tệ để đổi lấy một bữa ăn cao cấp
hoàng gia, trên màn hình hiển thị những con số tăng dần, nhưng kết cục
chỉ khiến những đồng tiền tôi đã ném vào có đi không quay trở lại.
Trong nỗi bồi hồi với chuyện cũ và nỗi xấu hổ với Thanh Thanh, cỗ máy thời
gian lại trôi đi, cảnh tượng thay đổi. Tôi quay trở về với thành phố nhỏ ở Tương Tây, tan học xong, cả một đám trẻ con trần như nhộng lao xuống
sông vừa tắm vừa bắt cá, trời nhá nhem tối mới quay về nhà, quần áo dính đầy bùn đất, mẹ nhéo tai chửi mấy câu, sau đó tay kia nhét một quả đào
cho tôi. Buổi tối, dưới ánh đèn tù mù, tôi ngồi học văn, tưởng tượng
quảng trường Thiên An Môn mà cô giáo nói rằng còn to hơn cả huyện của
chúng tôi rốt cuộc là to bằng ngần nào. Bỗng dưng tôi lại tới Thượng
Hải, tôi đạp xe, đưa Châu Thanh Thanh đi từ quảng trường Ngũ Giác qua
đường Tứ Bình rồi ra bãi cát, hai tay cô ấy ôm chặt eo tôi, áp mặt vào
lưng tôi, ánh mặt trời rạng rỡ, màu xanh mát mắt, cơn gió nhẹ lướt qua
mặt tôi, khiến những cây ngô đồng hai bên đường lạo xạo tiếng lá. Người
nào trên đường cũng mang mộ