
ươi
không cần làm gì cả, cứ đứng ở đây là được, cũng không được ngẩng đầu, cứ thế
này thôi”, Dận Tường dặn.
“Vâng. Nô tỳ
hiểu rồi”, người con gái đó nói.
Dận Tường
cười cười, để người con gái đó đứng trước giường, còn mình thì đẩy cửa đi ra.
Hơn một
canh giờ trôi qua, Bích Đào bẩm lại với Dận Tường, Dận Tường nghe xong vội vội
vàng vàng chạy tới thư phòng. Đến cửa thư phòng, lại ngập ngừng do dự, sau đớ
giơ tay gõ cửa. Trong lòng buồn bực vô cùng, làm gì có ai phải gõ cửa chính thư
phòng của mình bao giờ?
“Vào đi”, một
giọng lạnh lùng vang lên. Dận Tường liền phối hợp rùng mình, sau đó đẩy cửa bước
vào. Đoán xem lúc này hắn nhìn thấy cái gì???
Chiếc áo
choàng trắng bị vứt tùy tiện dưới đất, bên cạnh chiếc áo bị ném, còn thấy bóng
lưng đang quỳ khóc thút thít, đầu tóc rối bù. Bên giường, bức tượng điêu khắc mặt
lạnh đang nhìn hắn cười nhạt.
“Tứ ca,
huynh tỉnh rồi à?”, Dận Tường cười hi hi hỏi.
“Hừ hừ”, Dận
Chân tiếp tục cười nhạt, nhìn người đang quỳ dưới đất, “Nói, hắn sai ngươi tới
hay ngươi tự tới?”.
“Tứ gia, nô
tỳ biết sai rồi, Tứ gia xin hãy tha cho nô tỳ lần này, sau này nô tỳ không dám
nữa”, người con gái đó khóc lóc.
“Cái này… Tứ
ca… Huynh xem?”, Dận Tường bắt đầu lắp bắp.
“Cái nào?
Xem cái gì? Ta thấy phải mang tiểu tử người đi gọt đẽo mới đúng.” Dận Chân đứng
dậy, đạp lên chiếc áo choàng màu trắng mà giày xéo.
“Còn không
mau cút đi?” Đây là nói với cô gái. Cô gái kia vội vàng đứng dậy loạng choạng
bước ra ngoài.
Dận Chân đi
đến bên Dận Tường, liếc xéo hắn một cái, sau đó lạnh lùng mở miệng: “Lão Thập
tam, chuyện này đợi ta rảnh sẽ tính với đệ”, sau đó sải bước ra ngoài. Dận Tường
vội chạy theo sau, gọi quản gia chuẩn bị xe ngựa, đích thân tiễn người ra tận cửa,
nhìn theo bóng chiếc xe, cười ha ha đắc chí.
Phủ Tứ bối
lặc.
Vì Khuynh
Thành đột nhiên quay về, sắc mặt Nhan Tử La tươi tỉnh hơn một chút, Bách Hợp
cũng thầm thở phào nhẹ nhõm, xem ra trong lòng Tứ gia, vị trí của chủ nhân vẫn
rất quan trọng, nếu không sao hôm qua Thập tam gia vừa nói, hôm nay Cách cách
đã về rồi.
Khuynh
Thành vẫn giống mọi ngày nằm trong lòng Nhan Tử La nũng nịu cười nói, ăn xong bữa,
hai mẹ con ngủ trưa dậy, Khuynh Thành đột nhiên nghĩ tới hai câu thơ “Hốt như
nhất dạ xuân phong lai, Thiên thụ vạn thụ lê hoa khai”[1'>, bèn nài nỉ Nhan Tử
La dạy nó học thuộc bài thơ này. Nhan Tử La bảo Bách Hợp đến gian phòng phía
Tây cầm quyển thơ Đường tới. Liếc mắt nhìn, chính là quyển thơ từng kẹp tờ giấy
kia. Lật tới trang có bài Bạch tuyết ca tống Vũ phán quan quy kinh, dạy Khuynh
Thành học. Đầu óc Khuynh Thành đặc biệt nhanh nhạy với thơ ca, đọc chưa đến một
tuần trà đã thuộc. Chỉ có điều đọc xong rồi vẫn còn thấy hơi thắc mắc.
[1'> Hai câu
trong bài thơ Bạch tuyết ca tống Vũ phán quan quy kinh (Bài ca Tuyết trắng đưa
Vũ phán quan về kinh đô). Dịch nghĩa là: Gió xuân hây hẩy đêm rồi, Ngàn cây lên
điểm trắng ngời nở hoa.
“Ngạch
nương, tại sao lại nói là ‘Hồ thiên’ nhỉ? Trời mà còn phải phân biệt nữa sao?”,
Khuynh Thành nói.
“Thời Đường,
vùng đất Đột Quyết[2'>, Hung Nô ở phía Bắc đều bị gọi là đất Hồ, nên trời ở vùng
đất ấy đương nhiên phải gọi là trời Hồ rồi”, Nhan Tử La giải thích.
[2'> Một dân
tộc thiểu số thời cổ của Trung Quốc, là dân du mục ở vùng núi Altay.
“Vậy, triều
Đại Thanh ta có nguồn gốc ở quan ngoại, chẳng phải bị gọi là ‘Hồ’ rồi sao?”,
Khuynh Thành nghiêng đầu hỏi tiếp.
Nhan Tử La
ngẩn người, sau đó nói: “Thơ mà người xưa viết bao giờ cũng có liên quan tới
nơi mà họ sống, thời Đường những vùng Đột Quyết, Hung Nô lạc hậu hơn nhiều so với
Trung Nguyên. Người Trung Nguyên bèn coi thường bọn họ, gọi họ là người ‘Hồ’,
thật ra, trong câu thơ có mang ý kì thị, không đúng. Giờ Đại Thanh chúng ta đã
thống nhất thiên hạ, bốn bể cùng hưng thịnh phát triển, hơn nữa Đại Thanh ủng hộ
việc Mãn Hán thành người một nhà, khắp trời đất này đều là con dân của Hoàng
gia gia con, không có phân biệt Hồ, Hán gì nữa, vì vậy bầu trời cũng không bị
phân biệt”.
“Ồ” Khuynh
Thành hiểu biết gật đầu, sau đó lại hỏi: “Ngạch nương, tuyết ở phương Bắc có lớn
thế này không? Tháng Tám liệu có tuyết không? Nhưng khi chúng ta cùng Hoàng gia
gia đi tái ngoại lại không thấy tuyết?”.
“Bởi vì
chúng ta vẫn chưa thật sự vào sâu trong đất Bắc. Còn tuyết rốt cuộc có lớn như
thế này không, ta cũng không biết. Có điều, trong thơ Lý Bạch từng viết một câu
thế này, ‘Yên sơn tuyết hoa đại như tịch’[3'>, vì vậy, chắc là thật!”, Nhan Tử
La đáp.
[3'> Dịch:
Núi Yên Chi tuyết rơi như bão
“Hoa tuyết
và bão? Không giống chút nào! Một thi nhân cao minh như Lý Bạch sao lại dùng
cách so sánh này chứ?” Khuynh Thành trề trề môi.
“Thế con bảo
giống cái gì?”, Nhan Tử La cười hỏi.
“Giống rất
nhiều thứ, rất giống tơ liễu vào mùa xuân, cũng nhẹ nhàng bay khắp nơi. Ừm, còn
giống bồ công anh nữa”, Khuynh Thành tay chống cằm nói.
“Không ngờ
bảo bối nhà ta còn có tài ‘vịnh nhứ’.” Nhan Tử La cười.
“Là có ý gì
ạ, ngạch nương?”, Khuynh Thành hỏi.
“Cái này,
cũng là chuyện thời xưa, thời Đông Tấn