
Bàn chân tôi buốt nhói, cẳng chân tôi đau và mắt tôi bỏng rát khi bình minh ló rạng. Tôi đến nhà họ Tiền khi mặt trời lên tới đỉnh đầu. Hai cô con gái lớn đang làm việc dưới mái hiên, họ chăm sóc các nong tằm đang ăn lá dâu mới hái. Hai cô con gái thứ đang ở trong một gian xưởng cùng khoảng chục cô gái khác, bàn tay họ nhúng trong nước bốc hơi, rửa kén, kéo và xe tơ tằm thành sợi. Tiền phu nhân ở trong nhà đang chuẩn bị bữa trưa. Nghi, lần đầu tôi gặp nó vẫn còn ẵm ngửa trong tay mẹ, giờ đã lên ba. Nó là một vật bé nhỏ ốm yếu, gầy guộc xanh xao. Nó nằm trên một chiếc bệ gỗ thấp ở trong sảnh chính, ở chỗ người mẹ có thể nhìn thấy. Tôi ngồi xuống bên cạnh Nghi. Khi nó ngọ nguậy, tôi đặt tay vào mắt cá chân nó. Nó rúc rích cười khe khẽ. Có vẻ như nó không thể sống đến bảy tuổi được.
Ông chủ Tiền, mặc dầu tôi khó có thể nghĩ rằng người nông dân này là chủ của cái gì đó, trở về từ ruộng dâu và mọi người ngồi vào bàn ăn trưa. Không ai cho Nghi ăn gì cả; nó chỉ là một miệng ăn nữa cho đến khi chết.
Ngay khi bữa ăn kết thúc, ông Tiền ra hiệu cho mấy cô con gái lớn. "Tằm đói không nhả tơ," ông cắn cảu bảo chúng. Ngay sau đó, chúng đứng dậy và trở ra ngoài trên đôi bàn chân to bèn bẹt để tiếp tục công việc. Tiền phu nhân rót trà cho chồng, lau bàn rồi bế Nghi trở lại chiếc bệ. Bà lôi ra một chiếc giỏ và đưa cho con một mảnh vải và một cây kim đã xâu chỉ sẵn.
"Nó không cần học thêu đâu," bố của đám con gái khinh miệt nói. "Nó cần khỏe mạnh hơn để có thể giúp tôi."
"Nó sẽ không trở thành đứa con gái như ông cần và như ông muốn đâu," Tiền phu nhân nói. "Tôi e là nó sẽ theo bước mẹ."
"Bà thấp giá nhưng bà cũng đã làm tôi tốn kém. Chỉ toàn con gái..."
"Và tôi không giúp gì trong việc tơ tằm," bà nói nốt hộ ông.
Tôi run lên vì khiếp sợ. Phải nặng nề lắm đối với một phụ nữ tao nhã đến thế khi rơi xuống hoàn cảnh thấp kém này.
"Nếu con Nghi mà cứ thế này thì tôi không thể gả nó đi được," ông phàn nàn. "Gia đình nào lại muốn một người vợ vô dụng? Lẽ ra ta nên để nó chết khi mới sinh ra."
Ông sục sục ngụm trà cuối cùng trong miệng rồi bỏ đi. Khi chồng ra khỏi nhà, Tiền phu nhân liền tập trung hoàn toàn vào Nghi, chỉ cho nó các mũi thêu hình con dơi biểu tượng của phúc.
"Ông bà ngoại con từng là người của tầng lớp thân sĩ," Tiền phu nhân mơ màng nói với con gái. "Chúng ta đã mất tất cả trong Đại biến. Nhiều năm trời chúng ta đã lang thang ăn mày. Khi chúng ta tới làng này, mẹ mười ba tuổi. Ông bà nội con đã mua mẹ vì lòng trắc ẩn. Họ không giàu có gì, nhưng con có biết không? Họ nghĩ, nếu đã sống rất lâu trên đường thì mẹ hẳn phải khỏe mạnh. Mẹ khỏe mạnh."
Nỗi thất vọng của tôi càng sâu sắc hơn. Có phải mọi cô gái đều đau khổ không?
"Bàn chân bó đã ngăn cản mẹ làm việc bên cha con. Nhưng mẹ mang lại thu nhập cho cha con theo những cách khác," Tiền phu nhân tiếp tục. "Mẹ có thể may chăn đệm, hài đi và y phục đẹp để bán được ở Hàng Châu. Các chị gái con sẽ lao động chân tay suốt đời. Mẹ chỉ có thể mường tượng ra nỗi đau trong lòng chúng nhưng không thể làm gì cho chúng cả."
Bà cúi đầu. Những giọt lệ tủi hổ nhỏ xuống làm bẩn chiếc váy bông giản dị của bà. Tôi không thể chịu đựng thêm cảm giác đau buồn nữa. Tôi lẻn ra khỏi nhà và đi xa trang trại, xấu hổ vì sự yếu đuối của mình và e sợ mình có thể gây ra tổn hại cho gia đình này dù không chủ tâm khi mà họ đã rất khốn khổ rồi.
Lưu đày...
Tôi ngồi xuống vệ đường. Tôi có thể đi đâu được? Lần đầu tiên trong nhiều năm tôi nghĩ tới a hoàn cũ của mình, Liễu Nhi, nhưng tôi không có cách nào tìm ra nó cả. Mà ngay cả khi tìm được thì nó có thể làm gì cho tôi? Tôi đã nghĩ rằng nó là bạn mình, nhưng trong cuộc trò chuyện cuối cùng giữa chúng tôi, tôi đã biết rằng nó chưa bao giờ cảm thấy thế về tôi. Tôi không có một người bạn nào khi sống và khi chết tôi đã hy vọng được tính vào nhóm các thiếu nữ tương tư. Tôi đã cố gắng làm một người chị em chung chồng tốt với Trắc và tôi đã thất bại. Tôi tới đây cũng là một sai lầm. Tôi không phải là một phần của nhà họ Tiền cũng như họ không phải là một phần của tôi. Có lẽ tôi đã bị lưu đày trong cả cuộc đời... và khi chết nữa.
Tôi phải tìm được một chốn nào đó để sống, một nơi nào đó để tôi yên tâm rằng mình sẽ không làm hại ai. Tôi trở lại Hàng Châu. Trong nhiều ngày tôi tìm ven bờ hồ nhưng quá nhiều những linh hồn khác đã cư trú trong các hang hốc, tìm được chỗ thoải mái sau các khối đá hay náu mình vào các gốc cây. Tôi lang thang không mục đích. Khi đến Tây Lăng Kiều, tôi qua cầu để sang Cô Đảo, trước đây rất lâu, Hiểu Khánh đã bị giấu ở đây để được an toàn trước bà vợ ghen tuông. Nơi này lặng lẽ và hẻo lánh, một chốn lý tưởng với tôi để mòn mỏi trong nỗi buồn và ân hận. Tôi tìm kiếm quanh đảo cho tới khi thấy mộ Hiểu Khánh, ngôi mộ ẩn giữa hồ nước và chiếc ao nhỏ nơi nàng ngắm nhìn hình ảnh mong manh của mình. Tôi thu mình lại trong ô cửa của ngôi mộ, lắng nghe lũ vàng anh hót gọi nhau trong vòm cây phía trên và nghiền ngẫm việc tôi đã làm với một người vợ vô tội.
Tuy vậy hơn hai năm tiếp theo hiếm khi nào tôi cô đơn. Hầu như ngày nào