
chín ngày sau, cha Trắc tới để điểm lên bài vị cho nó. Sau đó, tấm bài vị này sẽ được đặt trong từ đường nhà họ Ngô. Vì nó chết khi đã xuất giá và đang mang bầu, một phần linh hồn nó sẽ bị niêm phong trong quan tài. Chiếc quan tài này sẽ để hở cho đến khi chồng nó chết, lúc đó, gia đình được tái lập bằng nghi thức chôn chung. Phần linh hồn còn lại của nó bị kéo đến Tụ Huyết Trì. Người ta đồn nơi này rộng đến mức phải mất tám mươi tư vạn ngày mới băng qua được, ở đó, nó sẽ trải qua một trăm hai mươi kiểu tra tấn, hàng ngày nó sẽ bị ép uống máu hay đánh đập bằng roi sắt. Đây là chốn vĩnh cửu của nó trừ phi gia đình mua tự do cho nó bằng việc thờ tự đúng nghi thức, cúng thức ăn cho tăng lữ và thần tiên, cầu kinh và mua chuộc phán quan địa ngục. Chỉ khi đó, mới có một chiếc thuyền mang nó ra khỏi cái hồ đau khổ sang một bến bờ ở đó nó có thể được thờ cúng trong từ đường của gia đình hay được tái sinh vào một xứ sở hạnh phúc.
Về phần tôi, tôi nhận ra rằng nếu mình đã góp phần khiến Trắc và con nó chết, dù cố ý hay không, thì tôi cũng không còn những khái niệm luân lý nữa: không cảm thông, không xấu hổ, không ý thức được phải trái. Tôi vẫn thường cho rằng mình đã rất thông minh và thậm chí là hữu ích nhưng Trắc nói đúng. Tôi là loại hồn ma tồi tệ nhất.
Mẹ vẫn thường bảo rằng ma quỷ và linh hồn không phải sinh ra đã tồi tệ.
Nếu hồn ma thuộc về nơi nào đó, thì nó sẽ không trở nên xấu xa. Nhưng nhiều hồn ma bị khao khát trả thù xúi giục. Ngay cả một loài nhỏ bé như ve sầu cũng có thể báo thù một cách tàn ác những ai làm hại nó. Tôi đã không nghĩ rằng mình muốn làm tổn thương Trắc song nếu nó nói đúng thì tôi đã làm điều ấy. Lòng tràn ngập khao khát muốn tự trừng phạt và nỗi sợ rằng mình sẽ tình cờ làm điều gì đó chết người đối với Nhân, tôi tự đày mình ra khỏi nhà chàng. Trên cõi trần gian này, tôi đã hai mươi lăm tuổi và đã bỏ cuộc. Đúng như Trắc tiên đoán, tôi đã gần như tan biến thành hư không.
Lưu đày...
Không biết đi đâu, tôi vòng quanh hồ tới trang viên nhà họ Trần. Trước sự ngạc nhiên của tôi, nhà cửa đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Bảo đã mua thêm đồ đạc, đồ sứ và đồ chạm ngọc bày vào mọi căn phòng. Những tấm thảm thêu bằng lụa mới lung linh treo trên tường. Nhưng cùng với sự tráng lệ ấy, một sự lặng lẽ khó chịu ngấm vào mọi thứ. Người sống ở đây giờ ít hơn nhiều. Cha tôi vẫn ở kinh thành. Hai người em trai của ông đã mất. Các tỳ thiếp của ông nội tôi cũng đã mất. Đậu Chổi, Liên và mấy em họ nữa của tôi đã xuất giá. Vì trong trang viên có ít người nhà họ Trần hơn, gia nhân đã được chuyển đi. Nhà cửa vườn tược phô trương vẻ đẹp, sự phong lưu và giàu có nhưng chúng lại thiếu tiếng trẻ con, niềm vui và những phép màu.
Trong không khí im lặng kỳ quái ấy, chợt có tiếng đàn tranh đầy ám ảnh vọng tới. Tôi tìm thấy Phong Lan đang chơi đàn cho mẹ tôi và các thím nghe trong Liên Khai Đường. Giờ nó đã mười bốn tuổi. Nó là một cô gái xinh đẹp và tôi thoáng chút tự hào rằng bàn chân bó của nó hóa ra rất ổn. Mẹ tôi ngồi bên cạnh nó. Mới chỉ chín năm trôi qua nhưng lúc này tóc bà đã lấm lấm điểm bạc. Nỗi buồn sâu sắc tràn ngập đôi mắt bà. Khi tôi hôn bà, bà rùng mình khiến những chiếc khóa giấu trong nếp áo dài kêu lách cách.
Gương mặt vợ Bảo nhăn nhúm vì nỗi buồn không sinh nở được. Nó không bị bán đi nhưng chồng nó đã đem hai tỳ thiếp về. Họ cũng chẳng đẻ được nốt. Ba người đàn bà ngồi cùng nhau, không cãi cọ mà than thở về thứ họ không thể có được. Tôi không thấy Bảo nhưng tôi phải cân nhắc xem có lẽ mình đã nghĩ sai về cậu ta. Cậu ta hoàn toàn có quyền bán mấy người đàn bà đó đi, nhưng cậu ta đã không làm thế. Những năm vừa qua, tôi đã chờ đợi (hay mong muốn?) kẻ lạ mặt được nhận nuôi này sẽ hủy hoại gia đình mình bằng sự quản lý kém cỏi, cờ bạc và thuốc phiện. Tôi mường tượng thấy đất đai thu hẹp lại và Bảo bán sạch những bộ sưu tập sách, trà, giả sơn, đồ cổ và trầm hương của cha. Nhưng không, ngược lại, những thứ này lại còn tăng lên. Bảo thậm chí đã thay thế những cuốn sách mà mẹ tôi đốt. Tôi ghét phải thừa nhận điều này, nhưng Bảo có thể đã tìm thấy những bài thơ của tôi khi đang đọc cuốn sách về xây đập đó. Nhưng tại sao cậu ta lại bán chúng đi? Chẳng ai cần số tiền đó cả.
Tôi tới từ đường. Chân dung ông bà nội vẫn treo phía trên ban thờ. Là hồn ma nhưng tôi vẫn cúi rạp mình trước họ. Rồi tôi cúi lạy bài vị của những người họ hàng khác. Sau đó tôi tới gian nhà kho, chỗ người ta giấu bài vị của tôi. Tôi không thể vào được vị góc lượn quá nhọn nhưng tôi nhìn thấy cái mép bụi bặm của nó trên chiếc giá phủ đầy phân chuột. Cho dù mẹ thương tiếc tôi, tôi đã bị những người còn lại của gia tộc lãng quên. Tôi không mong ai trong số họ bị ốm đau, nhưng ở đây chẳng có gì cho tôi cả.
Lưu đày...
Tôi phải tới đâu đó. Nơi duy nhất tôi từng đến là làng Cổ Đương trong lễ Vu Lan. Nhà họ Tiền đã nuôi tôi trong hai năm. Có lẽ tôi có thể tìm được một chỗ bên họ.
Tôi khởi hành khi màn đêm che phủ đất đai. Đom đóm bay quanh soi đường cho tôi. Đó là một quãng đường dài khi tôi không bị cái đói dẫn dắt và chỉ có nỗi ân hận làm bạn.