
ng lại thành công và may mắn.
Mẹ con Nghi sống sót sau bốn tuần lễ đầu tiên và bữa tiệc đầy tháng được tổ chức với rất nhiều trứng đỏ và bánh ngọt. Những người phụ nữ "ô ô a a" với đứa trẻ. Đám đàn ông vỗ lưng Nhân và uống rượu mạnh. Bàn tiệc được bày ra, rồi những người phụ nữ lui về nội đường, ở đó họ túm tụm xung quanh Nghi và đứa bé mà thì thào về chuyến thăm Hàng Châu đầu tiên của vua Khang Hy.
"Hoàng thượng muốn gây ấn tượng với mọi người bằng tình yêu nghệ thuật của mình nhưng mỗi bước trong hành trình của ngài khiến dân chúng cả nước lại tốn thêm một lạng bạc," Lý Thư phàn nàn. "Con đường ngài đi lát màu vàng của hoàng gia. Những bức tường và lan can đá nơi ngài dạo bước được chạm khắc hình rồng."
"Hoàng thượng tổ chức một lễ hội ngoạn mục," Hồng Chí Trạch nói thêm. Tôi lấy là vui khi thấy con gái Hồng Thăng đã lớn lên thành một thi sĩ xinh đẹp và thành công nhờ vào khả năng của chính mình. "Ông ta vừa phi trên lưng ngựa qua cánh đồng vừa bắn tên. Mũi nào cũng trúng đích. Ngay cả khi con ngựa lồng lên hoàng thượng vẫn bắn trúng mục tiêu. Việc này đã khuấy động cái gì đó trong phu quân em. Đêm đó, các mũi tên của phu quân em cũng trúng đích."
Điều này gợi hứng cho những phụ nữ khác tiết lộ rằng kỳ tích đầy nam tính của hoàng thượng cũng đã làm thay đổi chồng họ.
"Đừng có ngạc nhiên nếu trong mười tháng nữa nhà nào cũng nhộn nhịp tổ chức tiệc đầy tháng cho con," một phụ nữ nói và những người khác đồng tình.
Lý Thư giơ tay lên để dừng trận cười. Cô cúi người về phía trước, hạ giọng tiết lộ, "Hoàng thượng nói rằng đây là sự khởi đầu của một thời kỳ thịnh vượng nhưng tôi thì rất lo. Ngài rất phản đối Mẫu Đơn Đình. Ngài bảo rằng nó là sự sa đọa của các cô gái và nhấn mạnh quá nhiều vào tình. Các nhà luân lý đã chộp lấy ý này và đang thêm phân mình vào làm thối um phố xá."
Những người phụ nữ cố khích lệ nhau bằng lời lẽ can đảm nhưng giọng họ run run ngập ngừng. Điều đã khởi đầu như một lời bình luận đó đây của một ông chồng nào đó giờ đã trở thành chính sách của hoàng đế.
"Tôi bảo rằng không ai có thể ngăn chúng ta đọc Mẫu Đơn Đình hay bất cứ cái gì khác," Lý Thư nói với vẻ chắc chắn mà không ai tin cả.
"Nhưng trong bao lâu ạ?" Nghi buồn rầu hỏi. "Em thậm chí còn chưa đọc nó."
"Nàng sẽ đọc," Nhân đứng bên cánh cửa. Chàng sải bước qua phòng, bế lấy con trai từ tay vợ, giơ nó lên cao một lúc rồi lại hạ xuống cho nằm trong vòng tay mình. "Nàng đã vất vả cố gắng trong một thời gian dài để đọc và hiểu được những thứ ta yêu thích," chàng nói, "và giờ nàng vừa tặng ta một đứa con trai. Làm sao ta có thể không muốn chia sẻ với nàng thứ có ý nghĩa với ta nhiều đến thế."
Lời Nhân nói đã đánh thức khao nỗi khát hoàn thành công trình trong tôi, nhưng tôi chưa hẳn đã sẵn sàng và cả Nghi cũng vậy. Đã mười lăm năm kể từ khi tôi xem vở kịch. Trong suốt thời gian đó tôi nghĩ rằng mình đã thuần phục được những bản năng gây hại của mình, nhưng với đứa trẻ mới trong nhà tôi cần phải chắc chắn hơn. Nghi cũng cần học tập thêm nữa trước khi nó hiểu Mẫu Đơn Đình. Tôi sắp xếp để Lý Thư, Nhân và Ngô phu nhân giúp tôi chuẩn bị cho người chị em chung chồng của mình. Rồi sau hai năm nữa, trong thời gian ấy tôi sẽ chăm lo cho gia đình không gặp phải chuyện gì ngoài ý muốn, rốt cuộc tôi đã để chồng mình đưa cho Nghi tập Mẫu Đơn Đình mà Trắc và tôi đã cùng bình chú.
Mỗi buổi sáng, sau khi Nghi mặc đồ và trang điểm, nó tới vườn hái một đóa mẫu đơn. Rồi nó dừng lại ở bếp để lấy một trái đào tươi, một bát anh đào hay một trái dưa. Sau khi dặn dò người đầu bếp, nó mang đồ cúng tới từ đường. Thoạt tiên nó thắp hương và cúi rạp mình thi lễ với các vị tổ tiên nhà họ Ngô, rồi nó đặt phần trái cây trước bài vị Trắc. Khi làm xong những chuyện này, nó tới căn phòng để hình nhân của tôi và cắm đóa mẫu đơn vào bình. Nó nói với chiếc bài vị vùi bên trong hình nhân về hy vọng của mình với con trai và mong chồng cùng mẹ chồng luôn mạnh khỏe.
Rồi chúng tôi đi tới Vọng Nguyệt Đình, ở đó Nghi mở Mẫu Đơn Đình ra và đọc tất cả những ghi chú về tình yêu đã được viết lên lề sách. Nó đọc đến chiều muộn. Tóc nó buông xõa xuống lưng, tấm áo dài xòa quanh người, gương mặt hơi nhíu lại khi nó suy ngẫm một đoạn văn nào đó. Thi thoảng, nó dừng lại ở một dòng, nhắm mắt lại ngồi yên lặng như thể đang đắm mình sâu hơn vào câu chuyện. Tôi nhớ lại, khi mình xem kịch, nàng Lệ Nương cũng làm điều ấy, sử dụng sự tĩnh lặng như là cách để khán giả vươn tới nội tâm họ hầu tìm thấy những cảm xúc sâu sắc nhất. Mơ mộng, mơ mộng, mơ mộng, chẳng phải những giấc mộng là thứ cho chúng ta sức mạnh, hy vọng và khao khát hay sao?
Đôi khi tôi và Nghi gác việc đọc sách lại mà lang thang cho tới khi nó tìm thấy Nhân, Lý Thư hay Ngô phu nhân. Rồi tôi để nó hỏi họ về vở kịch, vì biết rằng càng học hỏi thì tâm trí nó càng rộng mở. Tôi để nó hỏi về những bản bình chú được những người phụ nữ khác viết, nhưng khi nghe nói rằng những gì họ viết ra đã bị thất lạc hay hủy hoại thì nó trở nên trầm ngâm.
"Tại sao," nó hỏi Lý Thư, "lại có quá nhiều ý tưởng của phụ nữ lại chỉ như nhữn