
hi đọc thấy điều này, tôi quên đi những năm tháng ám ảnh của mình, lòng dậy lên cảm giác tự hào về sự thấu hiểu và kiên trì của Nghi.
Nghi đáp lại những điều tôi đã viết và đôi khi đáp lại những điều xuất phát từ ngọn bút của Trắc. Trong suốt thời gian đó, tôi dần hiểu được Trắc trong những đoạn nó viết ra, rõ ràng như thể nó vẫn ở bên chúng tôi. Sau bao năm qua, tôi nhận ra rằng nó đã đóng góp nhiều hơn rất nhiều so với tôi nghĩ. Mặc dầu Trắc chẳng có vẻ gì là muốn cùng tương tư với chúng tôi, nhưng cứ như là nó đang mời gọi chúng tôi vậy.
Tôi lấy làm hoan hỉ về thành tựu của Nghi và gắng hết sức để giúp nó. Ban đêm, khi Nghi thức khuya để đọc, tôi làm ánh nến sáng hơn để nó không phải căng mắt. Khi nó mỏi mắt, tôi nhắc nó rót một cốc trà xanh và thoạt tiên giơ lên trước một mắt rồi đến mắt bên kia để làm tỉnh táo và dịu đi màu hoe đỏ. Mỗi khi hiểu được một đoạn, hay tháo gỡ được một điển tích nào đó, mỗi khi cảm nhận được và viết lại về những khoảnh khắc đầy xúc cảm, tôi lại thưởng cho người chị em chung chồng của mình. Tôi giữ cho con trai nó an toàn khi thằng bé lang thang trong vườn, ngăn không để thằng bé ngã khỏi hòn non bộ, bị côn trùng đốt hay thoát ra ngoài cổng trước. Tôi cảnh báo những tinh linh nước để đảm bảo rằng họ không lừa thằng bé chết đuối trong ao và các tinh linh cây cối để họ không làm thằng bé vấp rễ cây.
Tôi cũng bắt đầu thay đổi và bảo vệ toàn bộ khu trang viên. Khi Trắc còn sống, phần lớn những gì tôi biết chỉ là phòng ngủ. Trước đó, tôi đã so sánh nơi này với trang viên nhà họ Trần một cách không mấy thiện chí. Nhưng thứ mà tôi nghĩ là đẹp đẽ ở nhà mình thật ra lại lạnh lẽo và xa cách vì sự giàu sang, quá nhiều người, không riêng tư, không yên tĩnh, và tất cả những chuyện tầm phào, móc máy, mưu cầu vị thế. Còn nơi đây là ngôi nhà của một nghệ sĩ đích thực. Đồng thời cũng là ngôi nhà của một nữ sĩ. Dần dần, Nghi biến Vân Đường thành nơi nó có thể ẩn náu khỏi những đòi hỏi của gia đình, viết trong yên bình và mời chồng tới trong những đêm thanh vắng. Tôi tận dụng khả năng của mình để khiến căn phòng thậm chí còn dễ chịu hơn bằng cách gửi hương hoa nhài qua cửa sổ, thở vào các ô cửa để làm chúng mát mẻ hơn và lướt ngón tay trên những nụ hoa nở trong vườn để cánh hoa in lên tường những chiếc bóng rung rinh.
Tôi khiến thế giới tự nhiên mở ra và tuân phục trước tôi. Tôi khiến người ta biết tới cảm xúc của mình qua những đóa mẫu đơn nở rộ dịp xuân về, hy vọng rằng nhà họ Ngô sẽ nhớ đến tôi khi thấy vẻ đẹp và hương thơm của chúng; qua những vạt tuyết rơi xuống cây cối vào mùa đông, là mùa khi tôi chết; qua làn gió nhẹ phảng phất qua rặng liễu, loài cây nhắc Nhân rằng với tôi chàng mãi mãi giống như Liễu Mộng Mai; và qua những trái mai trĩu trịt trên cây, bởi chắc chắn rằng họ hiểu rõ giá trị điều huyền diệu đó. Chúng là những món quà của tôi tặng Nhân, Nghi và con trai họ. Việc hiến rượu cần phải được đền đáp và ưu đãi.
Một hôm, khi Nghi đang hong sách trong thư phòng Nhân, vài tờ giấy trúc rơi ra từ một cuốn sách. Nghi nhặt những tờ giấy giòn tan và nứt nẻ ấy lên đọc to, "Ta đã học thêu hình hoa hình bướm..."
Tôi đã viết bài thơ này ngay trước khi chết rồi giấu cùng những bài khác trong thư phòng cha. Bảo đã bán chúng cho Nhân khi Trắc đang hấp hối.
Người chị em chung chồng của tôi đọc những tờ khác, tất cả đều ố vàng và mỏng tang vì năm tháng. Nó khóc còn tôi nghĩ xem mình đã chết được bao nhiêu năm. Những mảnh giấy vụn nhắc nhở tôi rằng ở nơi nào đó thân xác tôi cũng đang mục nát.
Nó đem những bài thơ trở lại bàn viết đọc đi đọc lại. Đêm đó, nó đưa cho Nhân xem.
"Em nghĩ giờ mình đã hiểu chị Đồng. Ôi phu quân ơi, em đọc những gì chị ấy viết và cảm thấy em biết chị ấy, nhưng ta đã mất mát quá nhiều thứ."
Nhân đã có những mối quan tâm khác khi chàng mua những bài thơ từ em nuôi của tôi, nên đến giờ chàng mới đọc. Những bài thơ ấy đầy nữ tính và non nớt nhưng mắt chàng đầy lệ và long lanh khi nhớ đến tôi.
"Nàng sẽ quý mến cô ấy thôi," chàng nói, điều này cũng gần như chàng từng thừa nhận với ai đó rằng chúng tôi đã gặp gỡ. Tôi bay bổng với niềm vui ấy.
Ngày hôm sau, Nghi chép lại những bài thơ của tôi sang giấy mới, thêm một vài câu của nó vào những chỗ đã bị bong tróc mất. Như thế, chúng tôi trở thành một.
Khi nó đang làm việc này thì một cuốn sách trên giá rơi xuống làm cả hai chúng tôi ngạc nhiên. Cuốn sách nằm mở tung trên sàn, vài trang giấy thò ra ngoài. Nghi nhặt chúng lên. Đây là câu chuyện "thực" về việc bình chú mà tôi đã bắt Trắc viết và nó xé ra giấu đi, chỉ duy nhất có Nhân tìm thấy và lại giấu đi. Những tờ giấy này không cũ kỹ, phân hủy hay tan mảnh. Chúng vẫn mới. Khi Nghi đưa chúng cho Nhân, những bài thơ của tôi bị quên đi khi nỗi buồn của chàng dâng lên và trào ra từ con tim đôi mắt.
Trong khoảnh khắc ấy, tôi đã hiểu ra: tôi phải xuất bản công trình của mình. Những nữ văn sĩ từ hai nghìn năm trước, các nữ tác giả của số sách cha mẹ tôi đã sưu tập trong thư phòng và nhóm Tiêu Viên Ngũ Tử được nhớ đến và vinh danh, vì tác phẩm của họ đã được xuất bản. Tôi th