
a cô nhất định sẽ xuất hiện trong vòng
ba tháng tới” cao vút, hùng hồn để kết thúc đoạn đối thoại, khiến cho Ngải Tĩnh
kích động không thôi, kéo tôi qua, nói với ông thầy tướng số: “Ngài xem cho nó
xem. Sinh ngày 25 tháng 10 năm 1981. Tên là Lô Hân Nhiên, Đại sư ngài tính nhân
duyên cho nó với ạ.”
Nhìn gần mới thấy trên đầu cái đầu trọc lóc của ông thầy tướng
số này còn mờ mờ những vết lốm đốm trắng của bệnh chốc đầu, trên ria mép hoa
râm còn dính cặn trà, gân xanh nổi lên rõ ràng dưới lớp da tay nứt nẻ như da
chân gà, kẽ móng tay còn đen đen bẩn bẩn, hai con mắt đục ngàu, nhìn giống như
sắp mù. Tôi nhìn ông ta, cảm thấy trên trán ông ta viết mấy chữ to tướng: “lửa
đảo”, “mắc lừa tự chịu”, ra vẻ khinh thường nhìn xem ông ta có thể đoán số của
tôi thế nào.
Đại sư kia loay hoay với cái sơ đồ vận mệnh một lúc, hai mắt
trợn ngược, bấm đốt ngón tay: “Nóng tính, đột nhiên có tiền, cần kiệm, vô mưu,
thiếu dũng, thị phi đa đoan, cha mẹ đắc lực, được chồng giúp đỡ, nhân duyên sớm
tới.”
Tôi bỏ mũ xuống phe phẩy quạt: “Vậy xin hỏi sớm là năm nào?”
Đại sư nói: “Năm 23 tuổi, cô đã gieo hạt, cũng đã nảy mầm.”
Năm tôi hai mười ba tuổi, là một năm đất trời đảo lộn. Tôi đột
nhiên thất tình, bố tôi phá sản, mẹ tôi đòi tự sát, tôi cố chấp học nghiên cứu.
Tôi không hiểu, trong một đống hồ sơ phong phú như thế, cái lại “hạt” kia đã được
gieo xuống ở góc nào, không biết loại đất của tôi có thể khiến nó lớn lên khỏe
mạnh hay không. Có lẽ cái “mầm” kia đã héo úa từ lâu rồi, muốn sinh ra Na Tra
cũng chỉ cần có ba năm, nay đã bảy năm, ngay cả cái bóng cũng không thấy.
Tôi nói: “Đại sư, ông đừng có mang chữ nghĩa ra dọa tôi, tôi
thiếu văn hóa, ông nói một lời xác định đi. Con tôi còn đang ở nhà chờ bú, chồng
tôi đang lái xe tới đón tôi rồi đấy.”
Đôi mắt vẫn trợn ngược của đại sư kia cuối cùng cũng di chuyển
về vị trí bình thường, ông ta nói: “Cô cả đời ăn ngon mặc đẹp, tuổi đôi mươi
tìm được lang quân như ý, ba mươi sinh quý tử, mặc dù không nhạy bén trí tuệ,
không đại tài mỹ đức, nhưng thu hút thần tài tứ phương.”
Tôi nghiến răng nhìn vị bán tiên này, nghĩ rằng quả nhiên
ông ta bị mù, tôi đang mặc một cái áo phông đồ cổ có giá hai mươi đồng, da bị
phơi nắng trong cái lồng hấp này đến mức đen như than đá, vậy mà ông ta dám nói
tôi ăn ngon mặc đẹp, tôi không khỏi quạt càng mạnh, nói: “Đại sư, nhà tôi làm
ruộng, cũng không phải loại ruộng tốt mà người ta tranh nhau nhận thầu, chỉ là
loại đất ruộng cằn cỗi bình thường thôi. Gần ba tháng nữa tôi đã ba mươi rồi,
ông hỏi giúp tôi cậu quý tử kia của tôi trên đường tới đầu thai có vội lắm
không, đi máy bay hay tàu cao tốc? Nói tôi không trí tuệ, không tài năng phải
không? Đại sư, tôi đang học tiến sĩ đấy.”
Mí mắt đại sự giật giật, gân xanh trên trán cũng run run nổi
lên, vuốt râu nói khô khốc: “Vì vậy mới nói, cô gái, tri thức thay đổi số phận.”
Tôi vỗ bàn, chỉ vào mũi ông ta mà nói: “Nếu không nể mặt ông
là người tàn tật, bà đây lập tức gọi điện báo cảnh sát. Tri thức thay đổi số phận
cái con bà nhà nó.”
Sau khi trở về ký túc xá của trường, Ngải Tĩnh oán trách tôi
có phải mấy ngày nay ăn nhầm thuốc nổ hay không, mở miệng là chợ búa như thế,
không có một chút dáng vẻ của phần tử trí thức. Tôi quay sang soi gương, giữa
lông mày lại mọc thêm một cái mụn đặc biệt to, song song với chóp mũi, không lệch
một li, như gái Ấn Độ.
Cầm hộp cơm, Ngải Tĩnh hỏi tôi: “Buổi tối ăn gì?”
Tôi sờ sờ cái mụn vừa mới nổi lên, nói: “Tới cổng Tây ăn đồ
cay đi. Tớ nhớ thịt xiên của căn tin lắm rồi, căn tin trường mình thật sự không
biết thông cảm với những sinh viên già như chúng ta, vừa nghỉ hè đã đóng cửa.
Các em sinh viên bé nhỏ, mau quay về trường đi.”
Cuối cùng, kế hoạch ăn đồ cay buổi tối cũng không thực hiện
được. Vừa mới đặt chân tới cổng Tây, tôi nhận được điện thoại của Trịnh Ngôn Kỳ.
“A lô, bạn yêu, đang ở đâu vậy?” Cho dù đã nghe câu “bạn
yêu” này bao nhiêu lần, tôi cũng không cách nào thích ứng được.
Tôi nhìn sang những người đang đi lại trên đường, nói: “Còn ở
đâu được nữa. Làm ổ trong trường thôi.”
“Mau tới đây cho bạn xem nào, dạo này gầy hay béo?”
Tôi nói: “Cậu đang ở đâu?”
“Ở Starbucks cao ốc Tân Quang. Mau tới đây, bạn đưa đi chơi.”
Ngắt máy, tôi hỏi Ngải Tĩnh tuyến xe buýt từ trường chúng
tôi tới cao ốc Tân Quang đi đường nào?
Ngải Tĩnh là dân bản xứ, trong đầu có hẳn một cái bản đồ
giao thông công cộng của thành phố A. Mỗi lần hỏi con bé, tôi đều cảm giác như
nhìn thấy một cái màn hình công nghệ cao trong suốt, lơ lửng giữ không trung
như trong mấy bộ phim điện ảnh, đang chíu chíu cấp tốc tính toán ra kết quả.
Quả nhiên, ba giây sau, Ngải Tĩnh trả lời: “Ầy, có hơi xa.
Dù cậu đi tuyến nào cũng phải chuyển bến một lần. Trường chúng ta đúng là vùng
hẻo lánh, muốn đi đâu cũng phải đổi tuyến.”
Tôi nghĩ, hay là tìm một cái cớ để không đi. Ý định vừa mới
hình thành trong đầu, Trịnh Ngôn Kỳ đã như con giun trong bụng tôi, lập tức gửi
tin nhắn, bảo tôi gọi xe taxi tới, tiền xe cô ta trả.
Tôi vừa đọc xong tin nhắn, lập tức giơ tay