
tinh hoa của giáo phái này và đã
được thầy công nhận. Tuy thầy ngỏ ý muốn nhận Rajiva làm sư phụ Đại Thừa của
mình, đã công nhận học thuyết mới của Rajiva, nhưng dù thế nào thầy vẫn là sư
phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa của tôi.
Tôi gật
đầu đồng tình. Trong thế giới Phật giáo, khi một người sáng lập ra một luận
thuyết và tông giáo mới và muốn được thừa nhận, thì điều quan trọng nhất là
luận thuyết ấy phải thuyết phục được người có công dẫn dắt người đó bước vào
cánh cửa của thế giới Phật giáo và được vị đại sư đó công nhận. Kết quả này
chứng tỏ, Rajiva đã chiến thắng trong cuộc luận chiến (hẳn là rất cam go) với
chính sư phụ mình. Tuy rằng sau buổi luận chiến, Bandhuatta nói sẽ tôn Rajiva
làm thầy, nhưng đại sư không hề có ý định thay đổi học thuyết của bản thân, hay
nói cách khác, Banduatta không chịu từ bỏ thân phận là "sư phụ Tiểu
Thừa" của Rajiva. Lẽ nào đây là nguyên nhân khiến Rajiva buồn phiền như
vậy?
-
Rajiva, ai cũng có lập trường riêng. Cậu sẽ thuyết phục được đại sư chấp nhận
luận thuyết của mình, thậm chí còn ngỏ ý muốn tôn cậu làm sư phụ Đại Thừa. điều
đó đã là rất nhanh công rồi. Lẽ nào cậu vẫn muốn đại sư từ bỏ Phật giáo Tiểu
Thừa?
Rajiva
nhìn tôi kinh ngạc.
-
Rajiva nào dám ngông cuồng như thế!
- Vậy
vì sao cậu lại buồn phiền?
Rajiva
đột nhiên im lặng, ánh mắt đăm chiêu nhìn về phía dòng nước, thẫn thờ hồi lâu.
- Mẹ
tôi…
Rajiva
cắn chặt vành môi run run, như muốn khiến cho nó phải rỉ máu.
- Hôm
nay sư phụ đến và báo cho tôi biết, ba tháng trước, ở Thiên Trúc (Ấn Độ), mẹ
tôi đã… đăng tam quả.
Tôi
không hiểu
- Đăng
tam quả nghĩa là gì? Tồi tệ lắm sao?
Rajiva
thở dài, rồi hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói:
- Tam
quả, còn gọi là Anagamin, là cấp tu dưỡng thứ ba trong số bốn độ tu dưỡng mà
những người xuất gia muốn đạt đến.
Nhìn vẻ
mặt ngơ ngác của tôi, Rajiva tiếp tục giải thích:
-
Anagamin có thể dịch thành "Không trở lại". Nghĩa là, các tu sĩ đạt
đến cấp độ này, sau khi viên tịch, sẽ hóa sinh giữa cõi trời thanh tịnh, tiếp
tục thiền định để giải thoát khỏi năm điều trói buộc[12'>,
tức là được giải thoát hoàn toàn và sẽ không trở lại cõi phàm trần này nữa
Rajiva
nghẹn ngào, hít một hơi thật sâu, nhưng giọng nói càng lúc càng trở nên run
rẩy:
- Mẹ
tôi đã đắc thành đạo, từ nay thoát khỏi vòng luân hồi khổ ải, người đến được
cõi cực lạc rồi…
Cuối
cùng thì tôi đã hiểu, Rajiva nói dài như vậy, là muốn cho tôi biết, Jiva, Jiva
đã qua đời tại Thiên Trúc.
Các tài
liệu lịch sử chỉ viết rằng Jiva một mình rời khỏi Khâu Từ để đến Ấn Độ. Nhưng
sau đó không có bất cứ ghi chép nào về bà. Vậy là bà đã mất tại Ấn Độ. Và hung
tin này, Rajiva mới nhận được từ sư phụ Banduatta..
Tôi
bàng hoàng nhìn Rajiva, chả trách cậu ấy đau buồn đến như vậy. Jiva là người có
sức ảnh hưởng lớn lao đến cuộc đời Rajiva, hơn bất cứ ai. Bà đã đưa Rajiva đến
cửa Phật, đã dắt Rajiva đến Kabul học đạo để tránh vòng vây của những lời tung
hô, ca tụng sáo rỗng ở Khâu Từ, cũng chính bà khuyên Rajiva theo học giáo
thuyết Đại Thừa. Trước hai mươi mốt tuổi, mọi thứ trong cuộc đời Rajiva đều do
mẹ cậu ấy bày đặt. Với Kumarayana, Jiva có thể không phải là một người vợ hiền,
nhưng với Rajiva, bà là người mẹ tuyệt với, là người chỉ huy, là người dẫn
đường của cậu.
-
Rajiva, nếu cậu buồn thì hãy…
-
Không!
Rajiva
xúc động, hơi thở gấp gáp:
- Tôi
không buồn. Mẹ đã chứng tam quả, ước nguyện giải thoát của người đã thành hiện
thực. Người đã đến cõi cực lạc, từ nay tháo khỏi mọi ư phiền, vì sao tôi phải
đau buồn, tôi không nên đau buồn!
Rajiva
bị chấn động mạnh, rõ ràng trái tim cậu ấy đang đập dữ dội và hơi thở trở lên
gấp gáp khác thường, có thể dễ dàng nhận ra đó là những lời nói dối gắng gượng
của cậu ấy.
-
Rajiva.
Tôi nhẹ
nhàng vỗ vai Rajiva.
- Trong
hoàn cảnh này, ai cũng sẽ đau lòng, điều đó rất bình thường. Bởi vì cậu có tình
yêu, cậu yêu mẹ cậu. Vậy thì vì sao cậu phải kìm chế, không thể hiện ra những
cảm xúc đó?
- Tình
yêu ư?
Rajiva
khẽ nhẩm lại từ này, một tiếng "yêu" mà như có sức nặng ngàn cân,
khiến cậu ấy đọc không thành tiếng, chỉ có những âm hưởng run rẩy.
- Đức
Phật nói rằng, mọi thứ trên cõi đời này đều không tồn tại. Rajiva là người tu
hành, đâu có thể có "tình yêu"?
- Giáo
lý Phật giáo dạy rằng cuộc đời này những chuỗi đau khổ: sinh lão bệnh tử, yêu
thương, căm ghét, chia ly, thất vọng, bởi vì căn nguyên của mọi nỗi khổ xuất
phát từ tình yêu. Chỉ cần "diệt" được "yêu", sẽ lên cõi
Niết Bàn, từ đó thoát khỏi bể khổ luân hồi, bước vào cõi vình hằng. Nhưng, hãy
thử nghĩ xem, lẽ nào Phật tổ không có tình yêu? Ngài có vợ con kia mà, lẽ nào
ngài chẳng hề bận lòng về họ? Ngài đưa ra lời răn "diệt ái dục". vì
ngài từng nếm trải nỗi khổ sở do yêu thương mang lại? Nhưng nếu thực sự có thể
"diệt ái dục", thì vì sao chỉ đến lúc chết ngài mới đạt được sự giải
thoát? Niết Bàn, tịch diệt, tác diệt, diệt độ, tịch, vô sinh, trạch diệt, ly
hệ, giải thoát… tất cả những cách gọi đó, chẳng qua chỉ là từ đồng nghĩa với
cái chết mà thôi