
n mỉm cười
với thời gian, vẻ đẹp của nó đã khiến biết bao nhiêu học giả của thế kỷ XXI
phải thổn thức, ngậm ngùi.
Sau khi
phát triển hưng thịnh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, trong
vòng vài trăm năm, Phật giáo không hề có tượng thờ, chỉ có dấu chân Phật, ban
thờ, cây bồ đề, bảo tháp là những hình ảnh tượng trưng của Phật. Khi tôi đến
tham quan hang đá Ajanta ở Ấn Độ, một hang đá được xây dựng rất sớm, vào khoảng
thế kỷ I- II sau Công nguyên, tôi không thấy bất cứ tượng thờ nào, chỉ có dấu
chân Phật và ban thờ Phật. Một thế kỷ sau Công nguyên, cùng với sự phát triển
của Phật giáo Đại Thừa, tín ngưỡng hình tượng trở nên lưu hành, từ lúc đó mới
bắt đầu xuất hiện những tác phẩm tượng Phật.
Alexander
đại đế từng chinh chiến ngang qua Gandhara[10'>và
mang theo tới đây nền nghệ thuật Hy Lạp, nên các tác phẩm tượng Phật phần nhiều
chịu ảnh hưởng từ phong cách tạc tượng và điêu khắc của Hy Lạp, Gandhara trở
thành một trường phái quan trọng trong nghệ thuật tạo hình tượng Phật.
Các bức
bích họa trong ngôi chùa hang đá Lizil chịu ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật
Gandhara, thậm chí cả nghệ thuật Hy Lạp. Những bức vẽ tượng Phật mẫu đó đã bị
hủy hoại hoàn toàn chính là những đại diện tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
Gandhara. Khuôn mặt hình bầu dục, ngũ quan đoan chính, sống mũi cao, mái tóc
lượn sóng, búi gọn lên trên đỉnh đầu. Trên mình khoác áo choàng dài, lộ một bên
vai và để râu. Hình ảnh các vị Phật, Bồ Tát và thánh tiên trên các bức bích họa
phần lớn đều để trần nửa thân trên, dáng điệu uyển chuyển, thân thể bay bổng; y
phục, trang sức, thắt lưng, đều được khắc họa vô cùng tinh tế và sống động.
Tôi
đang phác thảo lại một bức họa “cung nữ hoắc Tất đạt đa
(Siddartha)”. Bức họa này kể câu chuyện
khi Phật tổ vẫn còn là một thái tử, ngài đã nhìn thấu những phiền não, khổ sở
của cuộc đời và từ đó quyết định đi tu. Cha của ngài, đức vua Tịnh Phạn
(Suddhoana) vì muốn ngài kế thừa vương vị nên đã ra sức kiến tạo một đời sống
xa hoa, hy vọng có thể níu giữ Tất đạt đa ở lại ở thế tục. Tôi đang say sưa
phác họa, chợt cảm thấy có điều gì lạ từ phía sau. Quay lại, bắt gặp Rajiva
đang chăm chú quan sát cuốn tập của tôi, khuôn mặt đỏ dữ dội. Tôi nhìn lại bức
vẽ của mình và hiểu ra vấn đề. Tôi đang phác thọa hình ảnh một cung nữ áp sát
thân mình thái tử, trong tư thế hết sức khêu gợi. Đây chỉ là một hình ảnh rất
nhỏ trong hàng nghìn hình ảnh trên các bức bích họa trong hang đá này. Nếu tôi
không vẽ lại và phóng to lên, chắc sẽ không ai để tâm đến những nét tinh tế ấy.
Thân hình và tư thế của cô cung nữ quả thực các nghệ nhân vẽ tranh. Rajiva đến,
tôi mới nhận ra mình làm việc nhập tâm tới mức mọi người đã đi hết mà không hay
biết. Không còn cách nào khác, tôi đành đi ăn cùng cậu ấy.
Mấy
ngày nay, cậu ấy và vị sư trụ trì tất bật chạy qua chạy lại, không lúc nào rời
bản vẽ thiết kế, mắt quan sát vách núi phía trước, tay chỉ trỏ liên hồi. Tôi
thấy tò mò liền hỏi, cậu ấy bảo sẽ dùng số tiền quyên tặng của triều đình trong
những năm gần đây cho chùa Cakra để xây dựng một pho tượng Phật khổng lồ. Tôi
nhìn vào bản vẽ thiết kế, pho tượng cao tới mười lăm mét, trong vòng hào quang
phía sau tượng Phật khổng lồ còn có rất nhiều hình tròn khắc họa các tượng Phật
nhỏ hơn. Kiểu tạo hình khác với tạo hình tượng Phật ở cõi Niết Bàn điển hình
của Phật giáo Tiều Thừa, đây là nghệ thuật Gandhara giai đoạn sau, hay còn gọi
là “trường phái Ấn Độ - Afghanistan”
Nghệ
thuật Gandhara men theo con đường tơ lụa thẳng tiến về hướng đông. Trước hết,
nó đổ bộ và phát triển rực rỡ tại phía đông của lãnh thổ Afghanistan vào thời
đại của đế quốc Kushan (hoặc Kusana). Tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan đã bị
Talian phá hủy chính là những đại diện tiêu biểu cho trường phái nghệ thuật
này. Thời niên thiếu, Rajiva từng theo mẹ đến Kabul, thuộc Kashmir để học đạo,
đây mà khu vực trung tâm Gnandhara, chắc chắn cậu ấy đã được chiêm ngưỡng những
pho tượng vĩ đại đó. Có lẽ nhờ thế mà Thiên Phật động Kizil mới có những hang đá bên
trong dựng tượng Phật khổng lồ. Một công trình lớn như vậy, thiếu bàn tay và
trí tuệ của một bậc cao tăng như Rajiva, khó mà có thể hoàn thành.
Nhưng
Rajiva không biết được điều này, rằng phương pháp kết hợp kiến trúc xây dựng
hang đá của Ấn Độ với nghệ thuật tạo tác những pho tượng khổng lồ nhằm tạo ra
những pho tượng Phật trong hang đá của Rajiva tại công trình Thiên Phật động
Kizil không chỉ gây tiếng vang mạnh mẽ ở Khâu Từ, mà còn có sức ảnh hưởng rất
lớn đến các công trình hang đá sau này như hang đá ở Mạc Cao, Đôn Hoàng, Vân
Cương hay ở Long Môn.
Không
thể không khâm phục và ngưỡng mộ cậu ấy. Nhưng tôi chợt nhận ra điều lạ lùng
này, trong khi Rajiva làm việc không nghỉ ngơi thì các sư tăng khác chỉ ngồi
yên trong phòng từ sáng đến tối. Thậm chí, đến giờ ăn họ cũng không ra ngoài,
thường sẽ có một chú tiểu mang hộp cơm đến và đặt vào từng căn phòng. Điều này
thật kỳ quặc, phải chăng họ đang thực hiện một nghi thức nào đó? Lúc ăn cơm tôi
đem thắc