Old school Swatch Watches
Đức Phật Và Nàng

Đức Phật Và Nàng

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 326674

Bình chọn: 10.00/10/667 lượt.

n mỉm cười

với thời gian, vẻ đẹp của nó đã khiến biết bao nhiêu học giả của thế kỷ XXI

phải thổn thức, ngậm ngùi.

Sau khi

phát triển hưng thịnh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, trong

vòng vài trăm năm, Phật giáo không hề có tượng thờ, chỉ có dấu chân Phật, ban

thờ, cây bồ đề, bảo tháp là những hình ảnh tượng trưng của Phật. Khi tôi đến

tham quan hang đá Ajanta ở Ấn Độ, một hang đá được xây dựng rất sớm, vào khoảng

thế kỷ I- II sau Công nguyên, tôi không thấy bất cứ tượng thờ nào, chỉ có dấu

chân Phật và ban thờ Phật. Một thế kỷ sau Công nguyên, cùng với sự phát triển

của Phật giáo Đại Thừa, tín ngưỡng hình tượng trở nên lưu hành, từ lúc đó mới

bắt đầu xuất hiện những tác phẩm tượng Phật.

Alexander

đại đế từng chinh chiến ngang qua Gandhara[10'>và

mang theo tới đây nền nghệ thuật Hy Lạp, nên các tác phẩm tượng Phật phần nhiều

chịu ảnh hưởng từ phong cách tạc tượng và điêu khắc của Hy Lạp, Gandhara trở

thành một trường phái quan trọng trong nghệ thuật tạo hình tượng Phật.

Các bức

bích họa trong ngôi chùa hang đá Lizil chịu ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật

Gandhara, thậm chí cả nghệ thuật Hy Lạp. Những bức vẽ tượng Phật mẫu đó đã bị

hủy hoại hoàn toàn chính là những đại diện tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật

Gandhara. Khuôn mặt hình bầu dục, ngũ quan đoan chính, sống mũi cao, mái tóc

lượn sóng, búi gọn lên trên đỉnh đầu. Trên mình khoác áo choàng dài, lộ một bên

vai và để râu. Hình ảnh các vị Phật, Bồ Tát và thánh tiên trên các bức bích họa

phần lớn đều để trần nửa thân trên, dáng điệu uyển chuyển, thân thể bay bổng; y

phục, trang sức, thắt lưng, đều được khắc họa vô cùng tinh tế và sống động.

Tôi

đang phác thảo lại một bức họa “cung nữ hoắc Tất đạt đa

(Siddartha)”.
Bức họa này kể câu chuyện

khi Phật tổ vẫn còn là một thái tử, ngài đã nhìn thấu những phiền não, khổ sở

của cuộc đời và từ đó quyết định đi tu. Cha của ngài, đức vua Tịnh Phạn

(Suddhoana) vì muốn ngài kế thừa vương vị nên đã ra sức kiến tạo một đời sống

xa hoa, hy vọng có thể níu giữ Tất đạt đa ở lại ở thế tục. Tôi đang say sưa

phác họa, chợt cảm thấy có điều gì lạ từ phía sau. Quay lại, bắt gặp Rajiva

đang chăm chú quan sát cuốn tập của tôi, khuôn mặt đỏ dữ dội. Tôi nhìn lại bức

vẽ của mình và hiểu ra vấn đề. Tôi đang phác thọa hình ảnh một cung nữ áp sát

thân mình thái tử, trong tư thế hết sức khêu gợi. Đây chỉ là một hình ảnh rất

nhỏ trong hàng nghìn hình ảnh trên các bức bích họa trong hang đá này. Nếu tôi

không vẽ lại và phóng to lên, chắc sẽ không ai để tâm đến những nét tinh tế ấy.

Thân hình và tư thế của cô cung nữ quả thực các nghệ nhân vẽ tranh. Rajiva đến,

tôi mới nhận ra mình làm việc nhập tâm tới mức mọi người đã đi hết mà không hay

biết. Không còn cách nào khác, tôi đành đi ăn cùng cậu ấy.

Mấy

ngày nay, cậu ấy và vị sư trụ trì tất bật chạy qua chạy lại, không lúc nào rời

bản vẽ thiết kế, mắt quan sát vách núi phía trước, tay chỉ trỏ liên hồi. Tôi

thấy tò mò liền hỏi, cậu ấy bảo sẽ dùng số tiền quyên tặng của triều đình trong

những năm gần đây cho chùa Cakra để xây dựng một pho tượng Phật khổng lồ. Tôi

nhìn vào bản vẽ thiết kế, pho tượng cao tới mười lăm mét, trong vòng hào quang

phía sau tượng Phật khổng lồ còn có rất nhiều hình tròn khắc họa các tượng Phật

nhỏ hơn. Kiểu tạo hình khác với tạo hình tượng Phật ở cõi Niết Bàn điển hình

của Phật giáo Tiều Thừa, đây là nghệ thuật Gandhara giai đoạn sau, hay còn gọi

là “trường phái Ấn Độ - Afghanistan”

Nghệ

thuật Gandhara men theo con đường tơ lụa thẳng tiến về hướng đông. Trước hết,

nó đổ bộ và phát triển rực rỡ tại phía đông của lãnh thổ Afghanistan vào thời

đại của đế quốc Kushan (hoặc Kusana). Tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan đã bị

Talian phá hủy chính là những đại diện tiêu biểu cho trường phái nghệ thuật

này. Thời niên thiếu, Rajiva từng theo mẹ đến Kabul, thuộc Kashmir để học đạo,

đây mà khu vực trung tâm Gnandhara, chắc chắn cậu ấy đã được chiêm ngưỡng những

pho tượng vĩ đại đó. Có lẽ nhờ thế mà Thiên Phật động Kizil mới có những hang đá bên

trong dựng tượng Phật khổng lồ. Một công trình lớn như vậy, thiếu bàn tay và

trí tuệ của một bậc cao tăng như Rajiva, khó mà có thể hoàn thành.

Nhưng

Rajiva không biết được điều này, rằng phương pháp kết hợp kiến trúc xây dựng

hang đá của Ấn Độ với nghệ thuật tạo tác những pho tượng khổng lồ nhằm tạo ra

những pho tượng Phật trong hang đá của Rajiva tại công trình Thiên Phật động

Kizil không chỉ gây tiếng vang mạnh mẽ ở Khâu Từ, mà còn có sức ảnh hưởng rất

lớn đến các công trình hang đá sau này như hang đá ở Mạc Cao, Đôn Hoàng, Vân

Cương hay ở Long Môn.

Không

thể không khâm phục và ngưỡng mộ cậu ấy. Nhưng tôi chợt nhận ra điều lạ lùng

này, trong khi Rajiva làm việc không nghỉ ngơi thì các sư tăng khác chỉ ngồi

yên trong phòng từ sáng đến tối. Thậm chí, đến giờ ăn họ cũng không ra ngoài,

thường sẽ có một chú tiểu mang hộp cơm đến và đặt vào từng căn phòng. Điều này

thật kỳ quặc, phải chăng họ đang thực hiện một nghi thức nào đó? Lúc ăn cơm tôi

đem thắc