
thấy nhìn như đang trôi xuống hai vực nước sâu hun hút, không có
cách nào thoát ra được. Sức thôi miên khó mà kháng cự của đôi mắt ấy khiến cơ
quan phát thanh của tôi như cứng lại, tê liệt, chỉ đủ sức thốt lên một tiếng:
- Ừ.
Vành
môi của cậu ấy như được kéo lên, đã rất lâu rồi mới thấy cậu ấy cười. Nhưng tôi
không ở lại thêm mấy ngày vì cậu đâu nhé, Rajiva. Tôi thật sự muốn tham dự ngày
hội sôi động, mang đậm màu sắc của phương Đông ấy. Tôi là một học sinh hiếu
học, tôi là một con ong chăm chỉ, nhưng tôi tuyệt đối không phải là một… người
yêu lí tưởng…
Những
buổi tối sau đó, Rajiva không đến. Tôi cứ ngỡ mình có thể mình tâm nhưng mỗi
ngày, cứ đến năm giờ chiều, tôi lại ngồi yên trong phòng, dõi mắt ra phía cửa,
cho tới khi ánh đèn tắt lịm, cả thành cổ chìm trong đêm tối tịch mịch. Hàng
ngày, cầm cuốn tập trên tay lang thang trong thành Subash, đi mãi đi mãi, rồi
không hiểu vì sao bước chân lại đưa đẩy đến cổng chùa Cakra, tôi cứ quanh quẩn
ở nơi đó hồi lâu, cho tới khi chú tiểu gác cổng cất lời hỏi han, tôi mới như
người vừa tỉnh cơn mê, vội vàng cúi đầu, chạy biến. Lòng buồn vô hạn, như thể
có bàn tay ai đó đang nắm chặt lấy trái tim tôi và vò nát, khiến tôi như kẻ mất
hồn, tay cầm cuốn tập để bắt đầu công việc, những nét vẽ lại hiện dần hình ảnh
của cậu ấy, hết bức chân dung này đến bức chân dung khác, nhưng vẽ xong tôi lại
ra sức xóa đi.
Chỉ còn
hai ngày là đến lễ hội Sumuzhe, vẫn không thấy bóng dáng Rajiva đâu. Khi lễ hội
kết thúc tôi sẽ rời khỏi Khâu Từ. trước lúc ra đi, liệu tôi có còn được gặp cậu
ấy lần cuối hay không? Mặc dù vẫn biết rằng, không gặp sẽ là cách tốt nhất để
khi ra đi, tôi có thể quên tất cả…
Buổi
tối, tôi nằm co trên giường, đôi mắt tiếp tục cần mẫn “canh chừng” cánh cửa,
suy nghĩ vẩn vơ. Tủ sách quý từng khiến tôi mê mẩn đang
bày ta trước mắt, nhưng không thể khơi dậy dù chỉ là một chút cảm hứng trong
tôi, vì nhiều ngày qua, cảm hứng ấy nằm bẹp trong góc xa xôi nào đó rồi. Mười
giờ đêm, nếu là ở thế kỷ XXI thì bây giờ mới là thời khắc bắt đầu cuộc sống về
đêm. Nhưng vào thời đại này, mười giờ đã là đêm khuya thanh vắng. Tôi thở dài,
vậy là lại một đêm nữa trôi nữa qua.
Bỗng
tôi nghe có tiếng gõ cửa, không ồn ào, nhưng rất rõ ràng. Rồi tiếng trò chuyện
của Mavasu với ai đó vang lên trong sân. Họ nói chuyện bằng tiếng Phạn! Là cậu
ấy!
Tim đập
liên hồi, tôi vùng dậy, nhảy xuống giường và lao ra khỏi phòng. Rajiva đang
đứng trò chuyện với Mavasu giữa sân, trong bóng tối tôi không thấy rõ biểu cảm
trên khuôn mặt cậu ấy. Nỗi băn khoăn ngày càng dâng cao, nếu không có việc gì
hệ trọng, cậu ấy không đến vào giờ này. Có lẽ đã xảy ra chuyện gì đó.
Mavasu
buồn rầu, lẳng lặng về phòng. Rajiva chậm rãi bước lại gần tôi, có cảm giác mỗi
bước đi của cậu ấy là một nỗ lực vô cùng lớn lao.
- Khuya
thế này, lẽ ra Rajiva không nên đến….
Giọng
nói trở nên run rẩy.
-
Nhưng, muộn phiền chất chứa trong lòng. Rajiva ra ngoài đi dạo, không hiểu vì
sao bước chân lại đưa đẩy đến nơi này. Rajiva đứng ngoài cổng lưỡng lự hồi lâu,
mới quyết tâm gõ cửa.
Cậu ấy
ngẩng lên nhìn tôi, ánh sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn nhỏ trong phòng chiếu
lên khuôn mặt đau thương cùng cực. Rốt cuộc là chuyện gì đã khiến một người
luôn điềm tĩnh, an nhiên như Rajiva trở nên tội nghiệp thế?
Cậu ấy
đứng đó, dáng vẻ buồn khổ và bất lực, tôi khẽ cất tiếng:
-
Rajiva, chúng ta ra ngoài đi dạo một lát nhé!
Rajiva
nhìn tôi bừng vẻ ngạc nhiên, xem lẫn cảm động và hàm ơn, cậu cúi đầu thì thào:
- Cô
mặc thêm áo vào, bên ngoài trời lạnh…
Thành
cổ Subash chìm trong yên tĩnh, đường phố đã tắt đèn từ lâu, nhưng ánh trăng
vằng vặc vẫn soi tỏ đường đi dưới chân. Chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau. Đây là
lần đầu tiên tôi ra ngoài cùng cậu ấy vào giờ khuya thế này. Rajiva hẳn cũng có
chút e ngại và thận trọng.
Subash
là thành phố nhỏ có ý nghĩa tôn giáo nhiều hơn quân sự, bởi vậy thành phố này
không có tường thành bao quanh giống như những thành trì kiên cố khác. Chúng
tôi đi vài bước đã ra khỏi thành để đến bên dòng sông Tongchang. Lúc này đang
là mùa hạ, nước sông chảy xiết, tiếng nước róc rách càng tôn thêm vẻ tĩnh mịch
của đêm vắng.
Chúng
tôi tìm thấy một phiến đá lớn ven sông, tôi ngồi cuộn tròn, lặng nhìn cậu ấy.
- Sư
phụ từng truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa ở Kabul của tôi vừa tới đây.
- Đại
sư Bandhudatta ư?
Truyện
kể về Rajiva viết rằng, cậu ấy đã bỏ rất nhiều công sức để thuyết giảng giáo lý
Phật giáo Tiểu Thừa cho vị sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa cho mình là
Bandhudatta nghe.
- Vì
sao cô biết tên của sư phụ?
- Tôi…
Tôi
giật mình. Tất nhiên là tôi đọc tài liệu nên mới biết được.
- Đúng
rồi, tôi từng nói với cô. Không ngờ, mười năm rồi cô vẫn còn nhớ.
Rajiva
từng kể cho tôi nghe ư? Sao tôi không nhớ gì cả?
Tôi
ngượng ngùng chuyển chủ đề:
- Cậu
đã luận đàm với đại sư về Phật giáo Đại Thừa?
Rajiva
gật đầu
- Mấy
ngày qua, Rajiva đã cùng thầy luận đàm rất nhiều về những giáo lý của Phật giáo
Đại Thừa, phân tích những điểm tiến bộ, những